đình trở nên lỏng lẻo, nguy cơ tan vỡ cuộc hôn nhân hợp pháp tăng cao. Trường hợp này tòa án cần tuyên bố không công nhận việc sống chung đó. Pháp luật cũng cần có thêm những chế tài để ngăn chặn việc gia tăng tình trạng đã kết hôn mà vẫn sống chung với người khác.
Tuy nhiên khi xử lý cần chú ý những trường hợp do điều kiện lịch sử, cán bộ, bộ đội miền Nam đã có vợ có chồng nhưng khi tập kết ra miền Bắc lại lấy vợ hoặc chồng khác ở miền Bắc. Những trường hợp này không bị coi là kết hôn trái pháp luật.
Tại khoản 3, 4, 5 Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định các trường hợp cấm kết hôn bao gồm:
- Giữa những người cùng dòng máu về trực hệ; giữa những người có họ trong phạm vi ba đời;
- Giữa cha, mẹ nuôi với con nuôi; giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
- Giữa những người cùng giới tính [44].
Nhưng trong các văn bản hướng dẫn thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì lại không có quy định cụ thể đường lối xử lý kết hôn trái pháp luật trong những trường hợp này. Đây cũng là một vướng mắc trong quá trình Tòa án giải quyết xử kết hôn trái pháp luật.
* Đối với các trường hợp vi phạm các điều kiện kết hôn, ngoài biện pháp xử lý theo Luật Hôn nhân và gia đình là hủy kết hôn trái pháp luật, còn có thể áp dụng các biện pháp xử lý hành chính hoặc thậm chí là hình sự tùy thuộc vào mức độ vi phạm của vụ việc
Theo quy định tại Điều 6, Điều 7, Điều 8 Nghị định số 87/2001/NĐ-CP ngày 21/11/2001 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình thì người kết hôn trái pháp luật hoặc người tổ chức kết hôn trái pháp luật sẽ bị:
Xử phạt hành chính dưới hình thức cảnh cáo hoặc phạt tiền từ 50.000 đồng đến 200.000 đồng đối với các hành vi sau:
Có thể bạn quan tâm!
- Chế định kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm 2000 - 6
- Hủy Việc Kết Hôn Trái Pháp Luật Và Hậu Quả Pháp Lý
- Người Có Quyền Yêu Cầu Tòa Án Hủy Kết Hôn Trái Pháp Luật
- Thống Kê Của Sở Tư Pháp Hà Nội Về Kết Hôn Có Yếu Tố Nước Ngoài Năm 2005
- Thực Tiễn Áp Dụng Chế Định Kết Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000
- Chế định kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm 2000 - 12
Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.
- Cố ý duy trì quan hệ vợ chồng trái pháp luật với người chưa đến tuổi kết hôn mặc dù đã có quyết định của Tòa án buộc chấm dứt quan hệ đó;
- Tổ chức việc kết hôn cho người chưa đến tuổi kết hôn [9, Điều 6].
- Cưỡng ép người khác kết hôn, ly hôn bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần hoặc bằng thủ đoạn khác;
- Cản trở người khác kết hôn, cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ bằng cách hành hạ, ngược đãi, uy hiếp tinh thần, yêu sách của cải hoặc bằng thủ đoạn khác [9, Điều 7].
Xử phạt hành chính dưới hình thức Phạt tiền từ 100.000 đồng đến
500.000 đồng đối với một trong các hành vi sau đây:
- Đang có vợ hoặc đang có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng;
- Chưa có vợ hoặc chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng hoặc đang có vợ nhưng chưa gây hậu quả nghiêm trọng;
- Kết hôn giữa những người có họ trong phạm vi ba đời;
- Kết hôn giữa cha mẹ nuôi với con nuôi;
- Kết hôn giữa người đã từng là cha mẹ nuôi với con nuôi, bố chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng;
- Kết hôn giữa những người cùng giới tính [9, Điều 8]
Đối với trường hợp trên còn áp dụng hình thức xử phạt bổ sung là buộc chấm dứt quan hệ hôn nhân trái pháp luật.
Nếu việc kết hôn trái pháp luật có mức độ vi phạm nghiêm trọng thì sẽ bị xử lý theo các Điều 146 - Tội cưỡng ép kết hôn hoặc cản trở hôn nhân tự nguyện, tiến bộ; Điều 148 - Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng; Điều 149 - Tổ chức tảo hôn, tội tảo hôn và Điều 150 - Tội loạn luân, chương XV Bộ Luật Hình sự
Việc xử lý sẽ do Tòa án cùng Viện Kiểm sát giải quyết theo Luật định.
2.2.5. Hậu quả pháp lý của hủy kết hôn trái pháp luật
* Quan hệ nhân thân
Về nguyên tắc, Nhà nước không thừa nhận hai người kết hôn trái pháp luật là vợ chồng. Quan hệ nhân thân giữa hai vợ chồng cũng không được nhà nước thừa nhận. Nhà nước chỉ thừa nhận tồn tại quan hệ vợ chồng khi nam - nữ kết hôn tuân thủ theo quy định của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn. Việc kết hôn mà vi phạm các điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn là trái pháp luật và bị Tòa án hủy việc kết hôn đó. Khi việc kết hôn trái pháp luật bị hủy thì "hai bên nam nữ phải chấm dứt ngay quan hệ như vợ chồng" (khoản 1 Điều 17 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000).
Như vậy, nếu như trước khi tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật, hai bên đã thực hiện các quyền và nghĩa vụ về nhân thân như quan hệ vợ chồng với nhau, thì khi có quyết định hủy kết hôn trái pháp luật, các bên phải "chấm dứt ngay quan hệ như vợ chồng" với nhau. Tuy nhiên, trong thực tế việc các bên thực sự chấm dứt quan hệ nhân thân sau khi hủy kết hôn trái pháp luật rất khó thực hiện. Bởi lẽ, quan hệ nhân thân giữa các bên là quan hệ tình cảm, là lợi ích về tinh thần. Việc Tòa án quyết định chấm dứt ngay cuộc sống chung không có nghĩa là họ chấm dứt luôn quan hệ tình cảm (trừ trường hợp họ tự nguyện yêu cầu hủy). Vì vậy, nhiều trường hợp Tòa án hủy kết hôn trái pháp luật nhưng họ không chấm dứt mà "vẫn mặn nồng chung sống", bất chấp quyết định của tòa án.
* Quan hệ tài sản
Theo quy định tại Điều 17 khoản 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì tài sản được giải quyết như sau:
- Tài sản riêng của ai thì thuộc quyền sở hữu của người đó, nhưng nếu có tranh chấp thì người có tài sản riêng phải có nghĩa vụ chứng minh. Nếu không chứng minh được đó là tài sản riêng thì tài sản đó được coi là tài sản chung của hai người để chia.
- Tài sản chung được chia theo thỏa thuận của các bên, nếu không thỏa thuận được thì có yêu cầu tòa án giải quyết.
Điểm mới của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 so với quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 và 1986 đó là: Luật mới quy định tòa án có thẩm quyền trong việc chia tài sản của hai bên nếu hai bên không thỏa thuận được. Khi chia tài sản chung Tòa án phải xem xét ai có công sức đóng góp nhiều hơn vào việc xây dựng, duy trì và phát triển khối tài sản chung để giải quyết. Đồng thời ưu tiên bảo về quyền lợi chính đáng của bà mẹ và trẻ em.
Khi có căn cứ hủy kết hôn trái pháp luật, Tòa án nếu có yêu cầu của hai bên nam - nữ sẽ chia tài sản chung trên nguyên tắc chia tài sản thuộc sở hữu chung theo phần. Kết hôn trái pháp luật là quan hệ hôn nhân không được nhà nước thừa nhận. Vì vậy khi chia tài sản, không áp dụng chia tài sản chung theo nguyên tắc chia tài sản của vợ chồng khi ly hôn.
* Quan hệ cha mẹ và con
Quan hệ cha mẹ và con phát sinh dựa trên sự kiện huyết thống, nuôi dưỡng không phụ thuộc vào quan hệ hôn nhân của cha mẹ có hợp pháp hay không. Do vậy, khi Tòa án hủy kết hôn trái pháp luật thì "quyền lợi của con được giải quyết như trường hợp cha mẹ ly hôn" (khoản 2 Điều 17 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000). Tòa án phải căn cứ điều kiện thực tế của đương
sự và các Điều 92, 93, 94 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 để giải quyết cho thấu tình đạt lý.
Theo Điều 92 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000:
Vợ, chồng vẫn có nghĩa vụ trông nom, chăm sóc, giáo dục, nuôi dưỡng con chưa thành niên hoặc đã thành niên bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
Người không trực tiếp nuôi con có nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con [44].
Trong trường hợp hai bên không tự thỏa thuận được thì "Tòa án quyết định giao con cho một bên trực tiếp nuôi căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con; nếu con từ đủ chín tuổi trở lên thì phải xem xét nguyện vọng của con. Về nguyên tắc, con dưới ba tuổi được giao cho mẹ trực tiếp nuôi, nếu các bên không có thỏa thuận khác" [44].
Luật pháp không thừa nhận quan hệ vợ chồng đối với những trường hợp kết hôn trái pháp luật. Chính vì thế, các bên trong quan hệ này không được hưởng thừa kế của nhau trong trường hợp một trong hai bên chết. Tuy nhiên quan hệ cha, mẹ và con không phụ thuộc vào quan hệ hôn nhân của cha mẹ có hợp pháp hay không, vì vậy, quyền thừa kế của con trong trường hợp cha mẹ kết hôn trái pháp luật vẫn được chia theo nguyên tắc về chia thừa kế cho con thro quy định của pháp luật về thừa kế.
Trường hợp kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn theo luật định ngoài việc bị hủy kết hôn trái pháp luật tùy từng mức độ vi phạm còn bị xử phạt hành chính hoặc xử lý theo luật Hình sự. Qua đây, cho ta thấy được thái độ của nhà nước với các trường hợp kết hôn vi phạm các điều kiện luật định. Chế tài áp dụng xử lý các trường hợp vi phạm này được Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cùng các văn bản hướng dẫn xử lý một cách linh hoạt hợp lý.
Trong thực tế, hậu quả pháp lý của hủy kết hôn trái pháp luật là rất phức tạp. Nhiều trường hợp khi hai bên kết hôn, họ không đăng ký kết hôn vì "bận rộn", vì "tin nhau là chính", vì "tưởng làm đám cưới là kết hôn rồi"… đến khi xảy ra chuyện thì mới giật mình.
Khi anh chị A và B kết hôn, chị vì tin vào lời nói của chồng "giấy tờ không quan trọng bằng tình cảm anh dành cho em" nên tổ chức đám cưới mà không cần thủ tục đăng ký kết hôn. Chỉ đến khi đứa con đầu lòng sắp chào đời, chị mới biết chồng chị đã có vợ và đăng ký kết hôn hợp pháp.
Có thể thấy, trong rất nhiều trường hợp, dù vô tình hay cố ý thì vẫn có nhiều thiệt thòi cho một bên khi kết hôn trái pháp luật và đa phần bên chịu thiệt vẫn là người phụ nữ. Ngay cả khi Tòa án có quyết định như yêu cầu cấp dưỡng cho con… thì việc người chồng cố tình không thực hiện vẫn là "chuyện bình thường". Thậm chí có trường hợp khi người cha mất đi, người con vì cha mẹ chưa đăng ký kết hôn còn không được bên gia đình người bố thừa nhận là cháu…[60]. Đăng ký kết hôn chính là cách thức duy nhất để bảo vệ quyền lợi chính đáng cho các bên có liên quan và đặc biệt là người phụ nữ. Điều đó sẽ tránh được những hậu quả đáng tiếc xảy ra khi kết hôn trái pháp luật.
2.3. KẾT HÔN CÓ YẾU TỐ NƯỚC NGOÀI
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, tại Điều 8 khoản 14 quy định:
Quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài là quan hệ hôn nhân và gia đình:
a- Giữa công dân Việt Nam và người nước ngoài;
b- Giữa người nước ngoài với nhau thường trú tại Việt Nam;
c- Giữa công dân Việt Nam với nhau mà căn cứ để xác lập, thay đổi, chấm dứt quan hệ đó theo pháp luật nước ngoài hoặc tài sản liên quan đến quan hệ đó ở nước ngoài [44].
Cũng tại Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, Điều 100, khoản 4 quy định: "các quy định của chương này cũng được áp dụng đối với các quan hệ hôn nhân và gia đình giữa công dân Việt Nam với nhau mà một hoặc cả hai bên định cư ở nước ngoài" [44].
Như vậy, có thể hiểu kết hôn có yếu tố nước ngoài là việc xác lập quan hệ vợ chồng trong đó có ít nhất một bên chủ thể là người nước ngoài, giữa hai chủ thể là người nước ngoài với nhau hoặc các căn cứ để xác lập việc kết hôn ở nước ngoài, theo pháp luật nước ngoài về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn.
Kết hôn có yếu tố nước ngoài được Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 ghi nhận trên cơ sở kế thừa, sửa đổi, bổ sung Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 theo hướng cụ thể, chi tiết, làm hoàn thiện hơn nữa chế định kết hôn. Nghị định số 68/2002/NĐ-CP, Nghị định số 69/2006/NĐ-CP quy định chi tiết việc kết hôn có yếu tố nước ngoài như: điều kiện kết hôn, nghi thức kết hôn, thẩm quyền kết hôn.
- Về điều kiện kết hôn: Điều 103 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 quy định: "Trong việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mình về điều kiện kết hôn". Để làm rõ hơn nữa điều kiện kết hôn, Điều 10 Nghị định số 68/2002/NĐ-CP quy định:
Việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài, mỗi bên phải tuân theo pháp luật nước mình về điều kiện kết hôn, người nước ngoài còn phải tuân theo quy định tại Điều 9, Điều 10 Luật Hôn nhân và gia đình của Việt Nam về điều kiện kết hôn và các trường hợp cấm kết hôn, nếu việc kết hôn được tiến hành trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam [10, khoản 1 Điều 10].
Trường hợp người nước ngoài với nhau kết hôn tại Việt Nam thì:
Mỗi bên phải tuân theo pháp luật của nước mà họ là công dân hoặc pháp luật của nước nơi thường trú về điều kiện kết hôn,
ngoài ra còn phải tuân thủ quy định tại Điều 9 và Điều 10 của Luật Hôn nhân và gia đình về điều kiện kết hôn và các trường hợp cấm kết hôn, nếu việc kết hôn được tiến hành trước cơ quan nhà nước có thẩm quyền của Việt Nam [10, khoản 1 Điều 10].
Quy định này của Luật vừa phù hợp với pháp luật Việt Nam, vừa phù hợp với pháp luật các nước và các điều ước quốc tế mà Việt Nam gia nhập.
Về nghi thức kết hôn: Điều 11 Nghị định số 68/2002/NĐ-CP quy định:
"Việc đăng ký kết hôn phải được đăng ký, do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện". Trường hợp đăng ký kết hôn tại Việt Nam thì: "Lễ đăng ký kết hôn tổ chức trang trọng tại Sở Tư pháp. Khi tổ chức lễ đăng ký kết hôn phải có mặt hai bên nam nữ kết hôn. Nếu hai bên đồng ý kết hôn thì Sở Tư pháp ghi nhận việc kết hôn [10, khoản 2 Điều 12].
Trường hợp đăng ký kết hôn tại cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam thì: "Lễ đăng ký kết hôn được tổ chức trang trọng tại trụ sở cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam. Khi tổ chức lễ đăng ký kết hôn phải có mặt hai bên đương sự. Nếu hai bên đồng ý kết hôn thì cơ quan Ngoại giao, Lãnh sự Việt Nam ghi việc kết hôn vào sổ đăng ký kết hôn" (12, khoản 3 Điều 19]. Nam, nữ không đăng ký kết hôn mà chung sống với nhau như vợ chồng thì không được công nhận là vợ chồng.
- Về thẩm quyền đăng ký kết hôn: Điều 12 Nghị định số 68/2002/NĐ-CP quy định:
Ủy ban nhân dân tỉnh nơi thường trú của công dân Việt Nam thực hiện việc đăng ký kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài; Nếu công dân Việt Nam không có hoặc chưa có hộ khẩu thường trú nhưng đã đăng ký tạm trú có thời hạn thì Ủy ban nhân dân tỉnh nơi tạm trú có thời hạn của công dân Việt Nam thực hiện việc đăng ký kết hôn. Trong trường hợp hai người nước ngoài xin