Thực Tiễn Áp Dụng Chế Định Kết Hôn Theo Luật Hôn Nhân Và Gia Đình Việt Nam Năm 2000

Đây là hiện tượng đã và đang ngày càng có xu hướng tồn tại nhiều hơn ở Việt Nam. Trước đây, khi Luật Hôn nhângia đình năm 2000 chưa có hiệu lực thi hành thì hiện tượng này diễn ra phổ biến nhưng chủ yếu là tại các vùng miền núi, vùng sâu, xa. Theo báo cáo tổng kết 8 năm thực hiện Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986: ở các tỉnh miền núi tỷ lệ nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn rất cao "Lào Cai 90% các cặp vợ chồng dân tộc Dao và Hmông kết hôn không có đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền; Hà Tây, An Giang, Tiền Giang tỉ lệ chung sống không đăng ký kết hôn chiếm 50% số vụ kết hôn" [57]. Khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực thi hành, việc hạn chế tình trạng trên cũng không đem lại kết quả như mong muốn. Theo báo cáo tổng kết năm 2007 của tỉnh Nghệ An "tỷ lệ hôn nhân không có đăng ký chiếm 60% trong tổng số gia đình" [57]. Năm 2006, Sở Tư pháp Điện Biên rà soát 35.022 cặp hôn nhân thực tế, phát hiện

8.000 cặp không đăng ký kết hôn hoặc không đủ điều kiện đăng ký kết hôn theo luật địnhCũng thời gian đó, thống kê tỷ lệ đăng ký kết hôn ở tỉnh Điện Biên là trên 81%, có huyện thấp đến mức ngạc nhiên, như Tuần Giáo 54,3 %; Mường Nhé 79,3% (hai xã Mường Toong và Chung Chải của Mường Nhé có trên 600 cặp chưa đăng ký kết hôn mà đã có vài mặt con với nhau) [20]. Gần đây nhất, theo điều tra quy mô lớn về gia đình Việt Nam thực hiện tại 64 tỉnh thành, vừa được công bố ngày 26/6, thì tỷ lệ các cặp vợ chồng không đăng ký kết hôn chiếm đến 28%.

Nghị định số 35/2000-QH10 và Nghị định số 77/2001/NĐ-CP quy định rõ thủ tục đăng ký kết hôn đối với trường hợp nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn. Nhưng trên thực tế khó thực hiện triệt để và đồng nhất. Ví dụ: Tiền Giang có gần 53.300 cặp vợ chồng chưa đăng ký kết hôn. Sở Tư pháp đã vận động nhiều năm mới có hơn 32.000 cặp vợ chồng đăng ký theo Luật định. Chỉ thị số 02/2003/CT-BTP ngày 14 tháng 7 năm 2003 của Bộ Tư pháp về việc đăng ký kết hôn cho các trường hợp sống chung như vợ chồng từ ngày 03/01/1987 đến 01/01/2001 đặt ra mục tiêu phải hoàn

thành việc đăng ký kết hôn cho các cặp nam nữ chung sống như vợ chồng không đăng ký kết hôn trên cả nước vào ngày 31/07/2004. Nhưng đến ngày 17/07/2004 theo rà soát của các địa phương trên cả nước có khoảng 300.000 cặp vợ chồng chung sống như vợ chồng không đăng ký thuộc diện "bắt buộc" phải đăng ký. Theo báo cáo của các địa phương thì đến thời điểm tổng kết chỉ hoàn thành đăng ký kết hôn cho khoảng 70% số đối tượng đã rà soát, còn lại 30% đối tượng chưa đăng ký kết hôn trên thực tế. Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Định, Ninh Thuận, Tây Ninh, Long An... đạt 90% (cụ thể Bình Định có khoảng 26.721 cặp; Ninh Thuận có 10.016 cặp, Tây Ninh 1.220 cặp, Bình Phước 1.179 cặp....); Thừa Thiên - Huế, Nghệ An đạt khoảng 60%, Quảng Trị, Bình Thuận, Hà Tĩnh đạt khoảng 30%; Sơn La, Hà Giang chỉ đạt 5% [4].

Từ sau khi Luật Hôn nhân và gia đình có hiệu lực vào năm 2000, Nhà nước đã quy định, kể từ năm 2001, nam nữ sống chung với nhau như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn thì không được pháp luật công nhận là vợ chồng. Tuy nhiên, theo điều tra quy mô lớn đầu tiên về gia đình Việt Nam thực hiện tại 64 tỉnh thành (được công bố ngày 26/6/2008) thì tỷ lệ các cặp vợ chồng không đăng ký kết hôn chiếm 28%. Với những cặp có đăng ký kết hôn thì cũng gần 14% đăng ký sau khi cưới. Theo Báo cáo số 120/BC-UBND của tỉnh Quảng Nam ngày 20/10/2008 về kết quả thực hiện Hiệp định về quy chế biên giới Việt Nam - Lào và quan hệ hợp tác giữa hai tỉnh Quảng Nam - Sê Kông năm 2008 thì có 20 cặp vợ chồng Việt - Lào kết hôn không giá thú đang sinh sống tại khu vực biên giới tỉnh Quảng Nam [52]. Mặc dù số lượng kết hôn không đăng ký hiện nay không còn là nhiều nhưng ở những vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xathì vẫn còn là phổ biến.

Bên cạnh đó, tình trạng sống chung như vợ chồng - "sống thử" đặc biệt ở những thành phố, tỉnh thành lớn, ở những thanh niên đang ngày càng nhiều. Nhiều sinh viên ra thành phố trọ học "góp gạo thổi cơm chung" đang trở thành một mốt, một chuyện "bình thường ở phố huyện". Dưới góc nhìn của nhiều nhà xã hội, văn hóa, chuyện "sống thử" này đang là một vấn đề có

nhiều ý kiến khác nhau. Tuy nhiên, theo ý kiến của Viện trưởng Viện Sức khỏe Sinh sản và Gia đình - Nguyễn Thị Hoài Đức - thì việc "sống thử" "chưa đăng ký kết hôn, chưa có sự ràng buộc về pháp luật, trách nhiệm thì người ta có thể dễ dàng bỏ nhau, hậu quả thì vô cùng nặng nề"

- Tình trạng kết hôn do bị lừa dối, cưỡng ép hoặc vì mục đích xuất cảnh... còn tồn tại đặc biệt là hiện tượng "kết hôn giả" giữa anh em, chú cháu với mục đích xuất cảnh, nhập hộ khẩu nước ngoài diễn ra khá phổ biến ở nước ta nhất là trong giai đoạn hiện nay.

Chị Trần Thị Minh Thu kết hôn với chú ruột là Trần Quốc Trọng là người Anh gốc Việt. Chị Thu muốn xuất cảnh và nhập cảnh quốc tịch Anh, theo pháp luật Anh thì chị Thu phải kết hôn người quốc tịch Anh. Do vậy mà chị Thu "kết hôn giả" với chú ruột của mình để được nhập quốc tịch. Trường hợp này kết hôn đã vi phạm điều cấm của pháp luật. Tuy cuộc kết hôn này không vì mục đích chung sống lâu dài nhưng đã vi phạm điều cấm của Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam làm ảnh hưởng đến đạo đức và truyền thống hôn nhân gia đình Việt Nam ta. Do đó, khi bị phát hiện và có yêu cầu, Tòa án sẽ hủy việc kết hôn trái pháp luật, đồng thời tùy từng mức độ có thể bị xử phạt hành chính nhằm thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật.

Hiện nay, việc kết hôn giữa công dân Việt Nam với người nước ngoài diễn ra ngày càng tăng. Trong "hai năm qua, có trên 31.800 phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài" (theo báo Hạnh phúc gia đình). Trong số đó, tuy không phải tất cả đều là các vụ "kết hôn giả" nhưng tình trạng "kết hôn giả" đi nước ngoài cũng không ít. Riêng ở các xã Phú Thuận, Phú Hải, thị trấn Thuận An… huyện Phú Vang, Thừa Thiên Huế, "mỗi năm có không dưới 50 trường hợp xuất ngoại bằng việc thuê người kết hôn và tổ chức đám" [19]. Dư luận thời gian qua cũng vừa nóng bỏng chuyện 03 người Hàn Quốc tuyển vợ trong số 112 cô gái Việt Nam. Phòng Cảnh sát điều tra tội phạm về trật tự xã hội Công an Thành phố Hồ Chí Minh đã triệt phá đường dây môi giới "kết

hôn giả" trên. Thế mà chưa hết, báo Thanh niên lại đưa tin, ngày 9.2.2009, Đội 5, PC14 Công an Thành phố Hồ Chí Minh phối hợp với Công an huyện Bình Chánh đã phát hiện 31 cô gái đang "trình diễn" cho 2 người Hàn Quốc xem mắt. Công an đã tạm giữ môi giới, phiên dịch và một số người liên quan đến vụ tuyển vợ đó. Có thể thấy đây đang là vấn đề nóng bỏng rất cần được Nhà nước quan tâm để đảm bảo những quy định của pháp luật về kết hôn được nghiêm minh và chặt chẽ.

- Tình trạng kết hôn vi phạm chế độ một vợ một chồng diễn ra nhiều ở nước ta.

Ví dụ: Chị Lê Thu Ngọc và anh Trương Văn ngụ tại phường 12, quận 11, Thành phố Hồ Chí Minh. Anh Văn đã có 1 vợ 4 con ở phường 6, quận 11 chưa ly hôn nhưng vẫn cưới chị Ngọc.

Trường hợp khác, anh Nguyễn Sĩ Hùng, sinh năm 1978 và chị Trần Thị Thu Huyền, sinh năm 1985 kết hôn ngày 09/03/2003 do Ủy ban nhân dân phường Quan Hoa, quận Cầu Giấy, Hà Nội cấp giấy chứng nhận kết hôn, có xác nhận độc thân của Ủy ban nhân dân phường Phúc Xá, quận Ba Đình, Hà Nội nhưng một thời gian sau anh Hùng đã "giấu" chị Thu Huyền cưới chị Nguyễn Thị Bích Hiền ở tổ 38 phường Thanh Xuân Trung, quận Thanh Xuân, Hà Nội, đăng ký kết hôn ngày 05/05/2006 tại Ủy ban nhân dân phường Thanh Xuân Trung và cũng được Ủy ban nhân dân phường Thanh Xuân Trung cấp giấy chứng nhận kết hôn [30].

Như vậy, trường hợp của anh Hùng đã vi phạm chế độ hôn nhân một vợ một chồng và vi phạm điều cấm của Luật Hôn nhân và gia đình. Xét thấy, trong trường hợp này, không chỉ anh Hùng kết hôn vi phạm điều cấm của Luật Hôn nhân và gia đình mà còn do sự vi phạm thủ tục của Ủy ban nhân dân phường Phúc Xá, quận Ba Đình, Hà Nội, nơi xác nhận tình trạng hôn nhân của anh Hùng hai lần vào năm 2003 và năm 2006. Bởi nếu Ủy ban nhân dân phường Phúc Xá không xác nhận lần thứ 2 vào năm 2006 cho anh Hùng

là "chưa có vợ lần nào" thì anh Hùng sẽ không đăng ký kết hôn hợp pháp với chị Bích Hiền được.

- Hiện nay do tác động của nền kinh tế thị trường, ảnh hưởng của lối sống phương Tây nên hiện tượng "chung sống như vợ chồng" giữa người cũng giới tính diễn ra nhiều và phức tạp ở nước ta.

Theo thống kê từ năm 2007 thì tại Hà Nội có khoảng 10.000 người có quan hệ đồng giới nam, Hồ Chí Minh có khoảng 20.000 người. Cho đến nay, con số này chắc chắn sẽ tăng lên đáng kể, không chỉ là đồng giới nam mà nữ cũng có. Tuy pháp luật Việt Nam không thừa nhận hôn nhân đồng giới, dư luận cũng đang có những thái độ bớt kỳ thị hơn với mối quan hệ này. Việc chúng ta sống bên cạnh người đồng giới không còn là vấn đề "shock" nữa và trong xã hội hiện nay, nhiều diễn đàn, nhiều câu lạc bộ dành cho người đồng giới tại Việt Nam đang xuất hiện. Thế nhưng, hiện tượng này cũng gây ảnh hưởng đến cuộc sống của những người còn lại. Tại một xóm trọ tại Tân Mai (quận Hoàng Mai), cô nữ sinh tên Huyền "dở khóc dở cười" khi 1 cô gái trong đôi đồng tính nữ sống bên cạnh sang xin ngủ nhờ (vì 1 cô đi về quê)Còn Quang, sinh viên Bách Khoa thì vừa bực, vừa sợ khi bị 1 bạn trai đồng giới "đánh ghen" vì tưởng Quang có quan hệ với "người yêu" mình. Điều này khiến Quang bị mang tiếng là đồng giới một thời gian dài[35].

Quan hệ đồng giới là một vấn đề rất phức tạp và trong dư luận xã hội đang dấy lên nhiều ý kiến trái ngược nhau: đồng ý hay là phản đối. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cần chú ý đến những ảnh hưởng của hiện tượng này đang có xu hướng lan rộng ở nước ta.

Nhìn chung, tình hình kết hôn vi phạm các quy định pháp luật về kết hôn xảy ra không ít và khá phổ biến ở nước ta. Từ khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực thi hành đến nay, tình trạng kết hôn vi phạm quy định về kết hôn nhìn chung có giảm hơn nhưng vẫn còn tồn tại ở nhiều nơi, nhiều vùng trong cả nước, thậm chí có khía cạnh lại còn tăng lên đáng kể

(sống chung như vợ chồng không đăng ký kết hôn và quan hệ đồng giới). Những hiện tượng vi phạm trên cần sớm tìm ra giải pháp khắc phục, đảm bảo xây dựng nên gia đình Việt Nam hạnh phúc, tiến bộ và bền vững.

Tình trạng kết hôn vi phạm các quy định của pháp luật về vấn đề kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình là xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Theo chúng tôi có thể đưa ra một số nguyên nhân chủ yếu sau:

Thứ nhất: Do trình độ dân trí thấp, không hiểu biết pháp luật hoặc có biết nhưng ý thức chấp hành kém, điều kiện kinh tế xã hội ở nhiều địa phương còn nhiều khó khăn; nhiều phong tục tập quán lạc hậu của dân tộc ít người đã được Nghị định số 32/NĐ-CP/2002 đã quy định là "bỏ" song vẫn được duy trì ở một số địa phương. Mặt khác, công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật Luật Hôn nhân và gia đình tuy đã được thực hiện nhưng chưa thường xuyên, rộng rãi, đồng bộ nhất ở vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người nơi điều kiện đi lại khó khăn.

Ví dụ: Tại một số dân tộc thiểu số, tục nối dây (người em trai chưa có vợ hoặc vợ đã chết thì có quyền lấy chị dâu làm vợ trong trường hợp anh trai của người đó đã chết (dân tộc Brâu), anh rể được phép lấy em gái của vợ nếu vợ đã chết (dân tộc Rơ Măm))

Thứ hai: Nhiều cơ quan nhà nước có thẩm quyền đặc biệt là cơ quan quản lý hộ tịch còn thiếu trách nhiệm, nhiều cán bộ hộ tịch trình độ còn hạn chế, chưa hiểu đầy đủ nguyên tắc, thủ tục đăng ký kết hôn. Nhiều vùng miền xa, hẻo lánh còn chưa được quan tâm, chú ý đến những vấn đề về kết hôn.Do vậy, mà nhiều trường hợp đã cấp giấy kết hôn trái quy định pháp luật, còn gây khó khăn, cản trở, không quan tâm đến nhu cầu kết hôn chính đáng của người dân...

Ví dụ: Ngày 9/11/2006, tại Ủy ban nhân dân phường Hàng Bạc, Hoàn Kiếm, Hà Nội, một số cán bộ tư pháp phường đã từ chối làm thủ tục đăng ký kết hôn cho chị Võ Kim Tuyết, 28 tuổi quê ở huyện Tiên Phước, Quảng Nam

và anh Lê Xuân Thành, công dân phường Hàng Bạc với lý do: xã Tiên Kỳ, nơi chị Tuyết thường trú xác nhận: "Chưa có gia đình, hiện đang sống độc thân" là sai quy định của pháp luật và yêu cầu chị phải về quê, xin xác nhận lại là: "Chưa đăng ký kết hôn lần nào và đây là đăng ký kết hôn lần đầu".

Việc làm cứng nhắc của các cán bộ tư pháp này đã gây khó khăn cho việc kết hôn của chị Tuyết và anh Thành. Sở Tư pháp đã nhanh chóng kiểm tra và chỉ đạo Tư pháp phường kịp thời sửa chữa sai sót, thực hiện việc đăng ký kết hôn cho chị Tuyết và anh Thành.

Nhiều cán bộ tư pháp vì đồng tiền, chấp nhận làm sai luật mà đặc biệt tình trạng này rất dễ xảy ra với các trường hợp kết hôn có yếu tố nước ngoài. Năm 2006, Giám đốc Sở Tư pháp Phú Yên bị buộc thôi việc do đã ký hợp thức hóa 48 hồ sơ đăng ký kết hôn với người nước ngoài trên địa bàn tỉnh. Nghiêm trọng là còn làm hợp thức hóa một hồ sơ kết hôn giữa hai anh em ruột thịt với nhau

Thực tế kết hôn vi phạm các quy định của pháp luật về vấn đề kết hôn trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 là hiện tượng phức tạp. Về nguyên tắc, kết hôn vi phạm các quy định của pháp luật về vấn đề kết hôn như: kết hôn trước tuổi Luật định, kết hôn vi phạm chế độ một vợ một chồng... sẽ bị xử hủy. Nhưng qua thực tiễn giải quyết, xét xử của các cấp Tòa án ở các cấp địa phương cho thấy chúng chỉ chiếm phần nhỏ so với án ly hôn. Ví dụ: Theo Báo cáo tổng kết công tác năm 2007 và triển khai nhiệm vụ năm 2008 của ngành Tòa án tỉnh Nghệ An cho thấy: án hôn nhân năm 2007 toàn ngành thụ lý 1453 vụ sơ thẩm, giải quyết 1393 vụ đạt 93,8%. Trong đó án xử vi phạm chế định kết hôn không có vụ nào [57].

Những hiện tượng vi phạm các quy định của pháp luật về vấn đề kết hôn cùng những khó khăn, thiếu sót trong thực tiễn áp dụng Luật Hôn nhân và gia đình 2000 cần phải sớm tìm ra giải pháp để khắc phục. Đòi hỏi cần phải hoàn thiện hơn nữa Luật Hôn nhân và gia đình nói chung và chế định kết hôn nói riêng.

3.2 THỰC TIỄN ÁP DỤNG CHẾ ĐỊNH KẾT HÔN THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2000

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cùng với các văn bản hướng dẫn đã cụ thể hóa các vấn đề kết hôn, là cơ sở pháp lý để bảo vệ chế độ hôn nhân và gia đình Việt Nam: tiến bộ, bình đẳng, hạnh phúc. Từ khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực thi hành trong thực tiễn, tình hình kết hôn, chấp hành các quy định pháp luật tăng lên rõ rệt, ý thức pháp luật của người dân thay đổi theo xu hướng tiến bộ hơn. Đặc biệt là kết hôn có đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền tăng lên rõ rệt. Qua quá trình khảo sát thực tiễn tại xã Cẩm Sơn, huyện Anh Sơn, tỉnh Nghệ An cho thấy: tỷ lệ kết hôn có đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền tại xã trước khi có Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 chỉ chiếm khoảng 5% trong số cặp vợ chồng. Chủ yếu họ chỉ làm đám cưới theo phong tục tập quán mà không đến Ủy ban nhân dân làm thủ tục đăng ký. Nhưng từ khi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực thì tỷ lệ đăng ký kết hôn tăng lên thể hiện qua bảng 3.1.

Bảng 3.2: Tỷ lệ đăng ký kết hôn tại xã Cẩm Sơn, huyện Anh Sơn, Nghệ An


Năm

Số cặp

Có đăng ký

Không đăng ký

2000

39

20

19

2003

45

43

2

2005

43

43

0

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.

Chế định kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm 2000 - 11


Theo bảng 3.2, nếu năm 2000, tại xã Cẩm Sơn tỷ lệ kết hôn có đăng ký chỉ chiếm 51% đến năm 2005 tỷ lệ đó đã tăng lên 100%. Mặt khác, tỷ lệ đăng ký theo Nghị định 77/2001/NĐ-CP của xã cũng tăng lên. Năm 2003 có 45 cặp đăng ký kết hôn thì có 20 cặp đăng ký theo Nghị định số 77/2001/NĐ-CP. Qua công tác tuyên truyền, vận động nên năm 2004 tỷ lệ đăng ký theo Nghị định số 77/2001/NĐ-CP cũng tăng lên đột biến cả xã có 98 cặp đến đăng ký kết hôn tại Ủy ban nhân dân. Không chỉ riêng xã Cẩm Sơn chấp hành Luật

Xem tất cả 120 trang.

Ngày đăng: 13/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí