Những Hạn Chế Về Bảo Đảm Quyền Công Dân Trong Hoạt Động Xét Xử Các Vụ Án Hôn Nhân Và Gia Đình Của Tand Thành Phố Hà Nội



sách thông qua việc tư vấn miễn phí về điều kiện, thủ tục khởi kiện, chứng cứ, tài liệu cần chuẩn bị để xuất trình khi khởi kiện. Các hình thức tư vấn pháp luật về hôn nhân và gia đình được sử dụng đa dạng như: Tư vấn trực tiếp tại trụ sở, Trợ giúp pháp lý lưu động... Công tác tư vấn này, một mặt hỗ trợ cho người dân có thể thuận lợi, nhanh chóng thực hiện việc khởi kiện bảo vệ quyền lợi của mình, mặt khác tránh được nhiều trường hợp đương sự không thực hiện được quyền khởi kiện do không biết quy định về điều kiện thời hiệu khởi kiện hoặc không biết cơ quan nào có thẩm quyền nên nộp đơn không đúng dẫn tới khi Toà án nhận đơn khởi kiện thì thời hiệu khởi kiện đã hết.

Về công tác tham gia tố tụng và đại diện ngoài tố tụng, Trung tâm trợ giúp pháp lý Nhà nước thành phố Hà Nội đã chủ động phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng và các cơ quan có liên quan triển khai thực hiện công tác tham gia tố tụng, đại diện ngoài tố tụng.

Thống kê từ 1-10-2012 đến 30-9-2013, Trung tâm đã ban hành 465 Quyết định, trong đó có 311 Quyết định cử Luật sư và 154 Quyết định của Trợ giúp viên tham gia tố tụng để bào chữa, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho 510 đối tượng được trợ giúp pháp lý [50, tr.11].

Trong đó có khá nhiều trợ giúp pháp lý về bảo đảm quyền của công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình.

2.3. Những hạn chế về bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình của TAND thành phố Hà Nội

Trong những năm qua mặc dù TAND thành phố Hà Nội đã đạt được nhiều thành tựu về bảo đảm quyền công dân trong hoạt động giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình, tuy nhiên trong vấn đề này tại TAND thành phố Hà Nội vẫn còn tồn tại một số hạn chế sau:

Một là hạn chế trong việc bảo đảm quyền khởi kiện vụ án hôn nhân và gia đình của công dân

Thực tiễn thụ lý các vụ án hôn nhân và gia đình tại TAND thành phố Hà Nội cho thấy nhiều trường hợp do nhận thức, hiểu biết pháp luật của đương sự về các điều kiện khởi kiện còn hạn chế dẫn đến việc đương sự thực hiện các quyền và

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 132 trang tài liệu này.



Bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình - Qua thực tiễn TAND thành phố Hà Nội - 11

nghĩa vụ của mình không đúng, không đầy đủ khi thực hiện quyền khởi kiện. Chẳng hạn như nộp đơn khởi kiện tại Tòa án nhưng đơn khởi kiện không có đầy đủ các nội dung theo quy định của pháp luật, thiếu những tài liệu, chứng cứ cần thiết cho việc khởi kiện hoặc đương sự nộp đơn khởi kiện không đúng Toà án có thẩm quyền, người viết đơn khởi kiện không có đủ tư cách pháp lý khởi kiện nhưng vẫn thực hiện việc khởi kiện tại Toà án. Ngoài ra, việc nghiên cứu cho thấy không ít các trường hợp, do đương sự không biết được các quy định của pháp luật về thời hiệu kháng cáo, kháng nghị. Do vậy, khi đương sự nộp đơn kháng cáo, kháng nghị tại Toà án thì thời hiệu khởi kiện đã hết. Khi Tòa án trả lại đơn khởi kiện vì lý do hết thời hiệu khởi kiện thì đương sự do thiếu hiểu biết pháp luật lại cho rằng Tòa án đã gây khó dễ cho họ và khiếu nại nhiều lần.

Đồng thời việc bảo đảm quyền khởi kiện vụ án của công dân còn hạn chế xuất phát từ trách nhiệm của cá nhân thực hiện việc tiếp nhận đơn. Cán bộ được phân công nhận đơn đôi khi còn thiếu tinh thần trách nhiệm, không hướng dẫn cụ thể và thái độ chưa phù hợp làm công dân phải đi lại nhiều lần. Về nguyên tắc, khi Tòa án nhận được đơn khởi kiện thì Tòa án sẽ vào sổ nhận đơn theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, trong thực tiễn cho thấy vẫn còn có những trường hợp khi nhận đơn khởi kiện, cán bộ nhận đơn xét thấy đơn khởi kiện của đương sự về hình thức và nội dung không theo đúng quy định của pháp luật vi phạm về bảo đảm quyền khởi kiện của đương sự.

Hai là hạn chế trong việc bảo đảm quyền của đương sự yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ và yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ.

Một thực tế tại TAND thành phố cho thấy các vụ án hôn nhân và gia đình khi Tòa án thực hiện thụ lý còn thiếu các tài liệu, chứng cứ cần thiết cho việc thụ lý vụ án. Toà án đã yêu cầu đương sự bổ sung chứng cứ, tài liệu ban đầu để có thể thụ lý vụ án nhưng đương sự không thể bổ sung được do cá nhân, cơ quan, tổ chức khác lưu giữ các tài liệu, chứng cứ này không có thiện chí cung cấp cho đương sự. Trong khi đó, theo pháp luật hiện hành thì đương sự chỉ có quyền yêu cầu Toà án can thiệp sau



khi vụ án đã được Toà án thụ lý và đương sự phải xuất trình được cho Toà án văn bản trả lời của cá nhân, cơ quan, tổ chức đó về lý do của việc không cung cấp chứng cứ, tài liệu cho đương sự. Thực tế này đã dẫn tới việc đương sự không thể thực hiện được quyền khởi kiện của mình, thậm chí không thể thực hiện được quyền đương sự yêu cầu cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp chứng cứ và yêu cầu Tòa án xác minh, thu thập chứng cứ. Rất nhiều vụ án bị quá hạn hoặc không thể giải quyết được vì đương sự không cung cấp được đầy đủ các chứng cứ, chứng minh.

Hoạt động xác minh, thu thập chứng cứ mang ý nghĩa quan trọng nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình được chính xác, là bước khởi đầu làm căn cứ ra phán quyết của Tòa án. Tuy nhiên, trong quá trình giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình theo trình tự phúc thẩm của TAND thành phố một số Thẩm phán giải quyết vụ án vẫn bị ảnh hưởng, lệ thuộc bởi kết quả nghiên cứu, đánh giá chứng cứ của cấp sơ thẩm. Điều đó đã dẫn tới tình trạng một số vụ án Tòa án cấp sơ thẩm đã mắc phải sai lầm trong giai đoạn xác minh thu thập chứng cứ nhưng khi giải quyết theo trình tự phúc thẩm TAND thành phố cũng không phát hiện được để kịp thời thu thập, bổ sung và đánh giá lại chứng cứ dẫn đến có kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm để xem xét lại bản án, làm cho việc giải quyết tranh chấp bị kéo dài ảnh hưởng trực tiếp tới quyền lợi của những người tham gia tố tụng.

Đối với các đương sự có trách nhiệm cung cấp tài liệu, chứng cứ nhưng muốn có đầy đủ tài liệu, chứng cứ phải phụ thuộc vào sự phối hợp của các cơ quan hữu quan khác, mới làm sáng tỏ những vấn đề liên quan đến vụ án. Tuy đã có các văn bản pháp luật quy định trách nhiệm cho các cơ quan khi có những việc liên quan đến Tòa án, nhưng thực tế trách nhiệm và việc phối kết hợp của các cơ quan khi Tòa án đến làm việc chưa cao, còn chậm trễ, có những chứng cứ vụ án và quyết định vụ án phụ thuộc hoàn toàn vào kết quả xác minh hoặc giám định. Có những trường hợp khác khi Tòa án yêu cầu các cơ quan chuyên môn tiến hành một số công việc như thực hiện ủy thác điều tra, tống đạt giấy báo, tống đạt quyết định, lấy lời khai, xác minh những vấn đề có liên quan đến vụ án... Một số trường hợp các cơ quan được ủy thác không tích cực phối kết hợp, họ không cho đây là nhiệm vụ được



pháp luật quy định mà cho là việc của Tòa án, nên dẫn đến tình trạng việc làm qua loa, kéo dài, thậm chí kết quả chất lượng những văn bản xác minh, lấy lời khai rất thấp. Đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến chất lượng giải quyết án thấp và tình trạng vụ án bị dây dưa, kéo dài, vi phạm thời hạn tố tụng.

Ba là hạn chế trong việc bảo đảm quyền thỏa thuận với nhau về giải quyết vụ án hôn nhân và gia đình của đương sự.

Theo Báo cáo tổng kết công tác của TAND thành phố Hà Nội hàng năm thì ở khâu thụ lý, khi nhận hồ sơ khởi kiện các Toà án thường lúng túng trong việc xem xét các điều kiện về hoà giải, về thời hiệu khởi kiện vụ án, do đó thời gian thụ lý vụ án bị kéo dài. Về nguyên tắc, khi đương sự đưa ra yêu cầu chính đáng đáp ứng được đầy đủ các điều kiện khởi kiện thì Tòa án phải xem xét và giải quyết. Tuy nhiên, thực tiễn vẫn còn tồn tại tình trạng chậm thụ lý mặc dù việc khởi kiện của đương sự đáp ứng đầy đủ các điều kiện khởi kiện luật định. Tình trạng này tồn tại thậm chí ngay trong cả những vụ án có sự tham gia của luật sư bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự. Như vậy, luật pháp dù đã quy định cụ thể về điều kiện thụ lý, thời hạn và thủ tục thụ lý nhưng việc thực thi trên thực tế lại phụ thuộc vào sự nắm vững pháp luật, tinh thần trách nhiệm của cán bộ thụ lý.

Bên cạnh chất lượng điều tra vụ án còn hạn chế, thì việc hòa giải cũng chưa đáp ứng được nhu cầu đòi hỏi của thực tế như trong quá trình hòa giải Thẩm phán chưa nắm chắc được nội dung hồ sơ vụ án, việc giải thích pháp luật còn sơ sài, khả năng động viên, hòa giải, thuyết phục các đương sự hướng đến giải quyết tranh chấp của một số Thẩm phán còn hạn chế. Do đó, kết quả hòa giải chưa đạt được kết quả cao. Đối với các vụ án thuận tình ly hôn về cơ bản đã giải quyết tốt, nhưng còn một số ít do quá trình hòa giải thuận tình ly hôn sơ sài, không chú ý giải quyết triệt để từng mối quan hệ trong hôn nhân, khi quyết định không chính xác và đôi khi viện dẫn điều luật còn chưa đầy đủ, nội dung quyết định còn có sơ xuất về lỗi chính tả, câu văn chưa rò ràng, nên dẫn đến việc quyết định công nhận thuận tình ly hôn các đương sự vẫn có đơn khiếu kiện đề nghị Tòa án cấp trên xem xét lại và dẫn đến tình trạng quyết định thuận tình ly hôn vẫn bị hủy theo trình tự giám đốc án để điều tra giải quyết lại từ giai đoạn ban đầu.



Bốn là hạn chế trong việc bảo đảm quyền tranh tụng tại phiên tòa của các đương sự

Việc đổi mới tranh tụng tại phiên tòa, TAND thành phố Hà Nội đã chủ động và tích cực đưa ra nhiều giải pháp nhưng chưa thật sự có sự đổi mới một cách toàn diện, sâu rộng do thiếu hướng dẫn cụ thể về nội dung, phương thức thể hiện để áp dụng thống nhất.

Mục đích, ý nghĩa của phần tranh luận giữa các bên đương sự tại phiên tòa là nhằm làm sáng tỏ những tình tiết khách quan của vụ án hôn nhân và gia đình, nhất là các tình tiết mà những người tham gia tranh luận còn có ý kiến khác nhau. Đồng thời thông qua phần tranh luận để giúp hội đồng xét xử sẽ có những đánh giá, nhận định đầy đủ khách quan về nội dung vụ án, để làm căn cứ khi nghị án và ra bản án hoặc quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục. Tuy nhiên, với các quy định của Luật tố tụng dân sự và thực tiễn hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình tại TAND thành phố Hà Nội cho thấy về thủ tục tranh luận tại phiên tòa thì chưa bao hàm được mục đích, ý nghĩa của phần tranh luận tại phiên tòa. Mặc dù về nguyên tắc trong tố tụng dân sự nguyên đơn và bị đơn khi tham gia quan hệ dân sự là bình đẳng, tự nguyện nhưng thực tiễn chất lượng của phần tranh luận của phiên tòa xét xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình rất hạn chế, không đạt được ý nghĩa làm sáng tỏ các tình tiết khách quan của vụ án, dẫn đến việc chưa bảo đảm yêu cầu về chất lượng xét xử.

Năm là hạn chế trong việc bảo đảm các quyền công dân nhờ người khác bảo vệ

Mặc dù tại thành phố Hà Nội với sự xuất hiện dày đặc các Văn phòng Luật sư, các Trung tâm trợ giúp pháp lý, Hội Luật gia… nhưng việc trợ giúp pháp lý cho các đối tượng yếu thế trong các vụ án hôn nhân và gia đình như phụ nữ, trẻ em, người nghèo còn rất nhiều bất cập. Bởi thực tế tại Việt Nam nói chung và tại Thành phố Hà Nội nói riêng chưa có các luật sư công có trách nhiệm tham gia hoạt động Trợ giúp pháp lý và cung cấp các dịch vụ tư vấn pháp lý miễn phí. Mặc dù pháp luật khuyến khích sự tham gia tự nguyện, tích cực và chủ động đối với hoạt động trợ giúp pháp lý nhưng thực tiễn cho thấy sự tham gia ở mức độ rất hạn chế của đội ngũ



luật sư vào hoạt động trợ giúp pháp lý. Điều này cũng có thể giải thích là do sự thiếu hụt đội ngũ luật sư nói chung cũng như sự vắng bóng của đội ngũ luật sư công nói riêng trong hệ thống tư pháp Việt Nam. Thêm nữa, phần lớn các luật sư tập trung chủ yếu ở trung tâm thành phố Hà Nội vậy nên đối với công dân vùng ngoại thành sự tiếp cận đối với hỗ trợ pháp lý còn rất hạn chế dẫn đến công dân không thể nhờ người khác bảo vệ quyền công dân của mình khi tham gia hoạt động xét xử trong khi bản thân mình hiểu biết và nhận thức về pháp luật còn hạn chế.

Sáu là hạn chế trong việc thanh tra kiểm tra về bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình

Mặc dù hàng năm TAND tối cao và TAND thành phố Hà Nội đều thực hiện công tác thanh tra, kiểm tra thường xuyên đối với hoạt động xét xử của TAND thành phố Hà Nội nói chung và đối với hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình nói riêng. Tuy nhiên, từ trước đến nay chưa có cuộc thanh tra, kiểm tra chuyên đề nào về vấn đề bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình. Mà vấn đề trên được thực hiện lồng ghép vào các cuộc kiểm tra khác nên vấn đề bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình chưa được quan tâm đúng mức và chưa phát hiện và rút kinh nghiệm đối với những sai phạm điển hình.

2.4. Nguyên nhân hạn chế về bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình của TAND thành phố Hà Nội

Vấn đề bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình đã được TAND thành phố Hà Nội quan tâm và thực hiện, tuy nhiên vẫn gặp một số hạn chế. Hạn chế trên xuất phát từ những nguyên nhân khách quan và chủ quan sau:

Về nguyên nhân khách quan:

Một là do hệ thống pháp luật về tố tụng dân sự và pháp luật về hôn nhân và gia đình chưa hoàn thiện, đồng bộ.

Thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước, trong những năm qua Nhà nước ta đã ban hành nhiều văn bản pháp luật thể chế hóa đường lối của Đảng trong



các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó có lĩnh vực hôn nhân và gia đình như ban hành Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 thay thế cho Luật hôn nhân và gia đình năm 1986; Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, được sửa đổi bổ sung năm 2011 thay thế cho Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án dân sự năm 1989; Bộ luật dân sự năm 2005… Những văn bản pháp luật mới được ban hành đã khắc phục được những thiếu sót của văn bản pháp luật cũ, đáp ứng tốt những yêu cầu áp dụng pháp luật để giải quyết các tranh chấp hôn nhân và gia đình trong giai đoạn hiện nay.

Tuy nhiên, bên cạnh đó vẫn có sự chồng chéo, mặc dù có nhiều văn bản hướng dẫn nhưng còn thiếu thống nhất. Mặt khác, các văn bản hướng dẫn thường xuyên có sự sửa đổi, bổ sung, thay thế. Đồng thời một số vướng mắc trong việc áp dụng các quy định của pháp luật, đặc biệt là các văn bản quy phạm pháp luật mới liên quan tới hoạt động của ngành TAND chưa được hướng dẫn áp dụng pháp luật kịp thời, đầy đủ làm ảnh hưởng nhất định tới chất lượng, hiệu quả hoạt động của ngành Tòa án cũng như ảnh hưởng đến vấn đề bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình tại TAND thành phố Hà Nội.

Hai là do hiểu biết pháp luật của công dân còn hạn chế

Thực tế cho thấy khi tham gia hoạt động giải quyết các vụ án hôn nhân và gia đình nhiều đương sự không thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ của mình theo luật định, không phối hợp, gây khó khăn, đối phó, cản trở cho việc giải quyết vụ án như: Không cung cấp tài liệu, chứng cứ, vắng mặt không có lý do hoặc xin hoãn phiên tòa khi Tòa án có quyết định đưa vụ án ra xét xử để mời Luật sư bảo vệ cho họ, không cho Tòa án và Hội đồng định giá, thẩm định vào nhà để đo đạc, thẩm định, xác định thực địa thửa đất tranh chấp… thực trạng này đã gây khó khăn rất nhiều cho hoạt động xét xử. Chính từ việc không am hiểu các quy định pháp luật về Tố tụng dân sự, pháp luật về hôn nhân và gia đình dẫn đến công dân không thể tự mình bảo vệ quyền của mình cũng như yêu cầu tòa án và các cơ quan khác bảo vệ quyền công dân của mình khi tham gia vào hoạt động xét xử các vụ án hôn nhân và gia đình.

Về nguyên nhân chủ quan:

Một là hạn chế về công tác tổ chức cán bộ



Trong những năm qua, TAND phố Thành phố Hà Nội thực hiện nhiệm vụ trong điều kiện kinh tế - xã hội nhiều khó khăn, án hôn nhân gia đình tăng cao và ngày càng phức tạp, trong khi số lượng cán bộ, Thẩm phán không đủ để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, dẫn đến tình trạng quá tải, án tồn đọng, án quá hạn, án hủy tăng cao.

Số lượng án mỗi năm tăng đều từ 10 đến 12%, với tính chất mức độ ngày càng phức tạp. Trong khi TAND thành phố Hà Nội đang thiếu và đề nghị TAND tối cao bổ sung biên chế Thẩm phán, Thư ký để phục vụ cho yêu cầu xét xử thì năm 2012 lại bị cắt giảm biên chế. Thẩm phán TAND thành phố Hà Nội có 90 Thẩm phán, (trong đó có cả 6 đồng chí lãnh đạo cơ quan), việc cắt giảm biên chế nên chỉ còn 60 người và phải tăng cường xuống TAND cấp huyện. Đây là những bất cập trong công tác tổ chức, cán bộ; chính sách biên chế đã tác động không nhỏ đến tư tưởng cán bộ, công chức, dẫn đến khó khăn trong việc thực hiện nhiệm vụ chuyên môn, ảnh hưởng đến hiệu quả và chất lượng công việc [44, tr.10].

Hai là hạn chế từ chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức

Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế về bảo đảm quyền công dân trong hoạt động xét xử vụ án hôn nhân và gia đình thuộc về trách nhiệm của Thẩm phán được phân công giải quyết vụ án. Tiếp đến là trách nhiệm của các đồng chí lãnh đạo thiếu kiểm tra, điều hành đơn vị nên ảnh hưởng tới việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó một số Thẩm phán chưa cập nhật đầy đủ, kịp thời và nhận thức đúng các quy định của pháp luật liên quan đến công tác giải quyết án hôn nhân và gia đình; chưa nêu cao tinh thần trách nhiệm, chưa chủ động tích cực trong việc nghiên cứu hồ sơ vụ án và trong việc thực hiện các kỹ năng thu thập chứng cứ và kỹ năng xét xử nên xảy ra tình trạng nắm không vững các tình tiết của vụ án, lúng túng khi điều hành phiên tòa… Chưa tận dụng thời gian nghiên cứu các văn bản quy phạm pháp luật và các văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật nên khi xét xử đã vi phạm tố tụng, áp dụng điều luật không đúng; Thụ động trong việc nghiên cứu hồ sơ, bản lĩnh chính trị chưa thực sự vững vàng, khả năng lập luận, diễn giải không logic dẫn đến không bảo đảm được quyền công dân trong hoạt động xét xử án hôn nhân và gia đình.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 02/07/2022