Thống Kê Của Sở Tư Pháp Hà Nội Về Kết Hôn Có Yếu Tố Nước Ngoài Năm 2005

kết hôn với nhau thì Ủy ban nhân dân tỉnh nơi thường trú của một trong hai bên đương sự thực hiện việc đăng ký kết hôn. Cơ quan ngoại giao, Lãnh sự tại nước tiếp nhận thực hiện việc đăng ký kết hôn giữa người Việt Nam với người nước ngoài cư trú tại nước đó [10].

Việc quy định chặt chẽ như vậy là biện pháp để Nhà nước kiểm soát việc tuân theo pháp luật của nam, nữ trong việc kết hôn, đồng thời ngăn chặn hiện tượng kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn theo quy định của pháp luật.

- Về trình tự, thủ tục nộp hồ sơ đăng ký kết hôn:

Theo Nghị định số 69/2006/NĐ-CP quy định hồ sơ đăng ký kết hôn gồm:

- Tờ khai đăng ký kết hôn (theo mẫu).

- Giấy xác nhận tình trạng hôn nhân.

- Giấy xác nhận của cơ quan y tế không mắc bệnh tâm thần, bệnh không làm chủ được nhận thức, hành vi.

- Bản sao có công chứng, chứng thực một trong những giấy tờ như: chứng minh thư nhân dân, hộ chiếu hoặc giấy tờ tùy thân khác.

- Bản sao hộ khẩu hoặc giấy đăng ký tạm trú, tạm vắng.

Hồ sơ phải được làm đầy đủ và nộp tại Sở Tư pháp tỉnh, thành phố nơi công dân cư trú. Khi nộp, "cả hai bên đương sự phải có mặt. Trường hợp có lý do khách quan mà một bên không thể có mặt được thì phải có đơn xin vắng mặt và ủy quyền cho bên kia đến nộp hồ sơ. Không chấp nhận hồ sơ đăng ký kết hôn qua người thứ ba" (khoản 1 Điều 14 Nghị định số 68/2002/NĐ-CP).

Sở Tư pháp sẽ kiểm tra, xác minh trong trường hợp cảm thấy việc kết hôn của họ có vấn đề nghi vấnSở Tư pháp tiến hành phỏng vấn trực tiếp hai bên nam nữ muốn kết hôn về sự tự nguyện, về khả năng giao tiếp ngôn ngữ và mức độ hiểu biết về hoàn cảnh của nhau nhằm ngăn chặn tình trạng kết hôn giả đang tăng cao tại Việt Nam. Sau đó hồ sơ hợp lệ sẽ được nộp lên Ủy ban nhân dân cấp tỉnh để ký giấy chứng nhận kết hôn. Việc trao giấy chứng nhận

kết hôn được tiến hành tại Sở Tư pháp. Hai bên ký vào giấy chứng nhận kết hôn và sổ đăng ký kết hôn được lưu giữ tại Sở Tư pháp.

Có thể thấy, các quy định của pháp luật về việc kết hôn có yếu tố nước ngoài theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 tương đối chi tiết, cụ thể, vừa phù hợp với pháp luật Việt Nam nói riêng và pháp luật quốc tế nói chung, vừa đáp ứng nhu cầu kết hôn vượt ra khỏi phạm vi quốc gia ngày càng nhiều của người dân. Nếu kết hôn vi phạm các quy định của Luật về điều kiện kết hôn, đăng ký kết hôn thì việc kết hôn đó không có giá trị pháp lý và sẽ bị hủy. Đây là điểm mới của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 so với Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959, 1986, làm hoàn thiện hơn nữa chế định kết hôn.

Hiện nay, việc kết hôn với người nước ngoài đang tăng trên toàn quốc. Chủ yếu những cuộc hôn nhân đó là giữa phụ nữ Việt Nam với người nước ngoài. Theo thống kê trên báo Hạnh phúc gia đình, trong 2 năm 2007, 2008 toàn quốc đã có trên 31.800 phụ nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài. Còn tại thành phố Hồ Chí Minh năm 2006 có 3742 trường hợp người Việt Nam kết hôn với người nước ngoài (trong đó Hoa Kỳ là 2042 trường hợp và Canada là 406 trường hợp), 8 tháng đầu năm 2007 là 2.800 trường hợp kết hôn với người nước ngoài.

Bảng 2.1: Thống kê của Sở Tư pháp Hà Nội về kết hôn có yếu tố nước ngoài năm 2005


Sự việc

Trường hợp

Tỷ lệ (%)

Đăng ký kết hôn

400

100

Nam Việt Nam với Nữ nước ngoài

19

4,75

Nam Việt Nam với Nữ nước ngoài (gốc Việt Nam)

28

7

Nữ Việt Nam với Nam nước ngoài

161

40,.25

Nữ Việt Nam với Nam nước ngoài (gốc Việt Nam)

75

17,5

Nữ Việt Nam định cư ở nước ngoài với Nam Việt Nam

46

11,5

Nam Việt Nam định cư ở nước ngoài với Nữ Việt Nam

69

17,25

Người nước ngoài với người nước ngoài

2

0,5

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.

Chế định kết hôn theo Luật Hôn nhân và Gia đình Việt Nam năm 2000 - 10

Theo bảng thống kê của Sở Tư pháp Hà Nội về kết hôn có yếu tố nước ngoài năm 2005 đã cho thấy, trong năm 2005 số lượng nữ Việt Nam kết hôn với người nước ngoài chiếm 40,25 % trong tổng số các trường hợp kết hôn trong một năm. Trong khi đó, nam Việt Nam kết hôn với nữ nước ngoài chỉ chiếm có 4,75%.

Trong tất cả những trường hợp kết hôn có yếu tố nước ngoài, nhiều trường hợp là "kết hôn giả"- nhằm nhiều mục đích khác nhau như: xuất ngoại, buôn bán phụ nữ, xâm phạm tình dục đối với phụ nữ, bóc lột sức lao động. Theo báo cáo của Sở Tư pháp tỉnh Long An năm 2000 thì có tới 82% các cuộc kết hôn có yếu tố nước ngoài trên địa bàn tỉnh nhằm mục đích kinh tế. Báo cáo của Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh năm 2003 thì có đến 85% các trường hợp kết hôn thông qua môi giới hôn nhân. Trong đó, phần lớn là môi giới bất hợp pháp. Thậm chí các cô dâu Việt Nam chấp nhận lấy những người bị dị tật, chênh lệch tuổi nhiều chỉ nhằm mục đích xuất ngoại... Theo con số thống kê của Sở Tư pháp Tây Ninh, một tỉnh trọng điểm của nạn buôn bán phụ nữ, "mười năm qua đã có 11.555 trường hợp phụ nữ trong tỉnh kết hôn với người nước ngoài. Riêng quý I năm 2008, đã có 246 trường hợp, nhưng chỉ có ba trường hợp làm thủ tục kết hôn tại Sở Tư pháp Tây Ninh. Số còn lại đăng ký kết hôn ở nước ngoài rồi về trình với Sở Tư pháp theo luật [55]. Như vậy có thể thấy, việc quản lý việc kết hôn có yếu tố nước ngoài sẽ rất khó khăn. Luật quy định vẫn chưa thực sự chặt chẽ dẫn đến nhiều khẽ hở trong Luật tạo cơ sở cho những hành vi phạm pháp gây thiệt hại cho người dân. Dư luận gần đây đang gióng hồi chuông cảnh báo cho các cô gái nuôi mộng lấy chồng xuất ngoại. Điều này cũng đặt ra yêu cầu cho Nhà nước, phải làm sao để bảo vệ được quyền và lợi ích của công dân nước mình khi kết hôn với công dân ngoại quốc?

Qua quá trình phân tích các quy định của pháp luật về vấn đề kết hôn trong chế định kết hôn, có thể nói chế định kết hôn được coi là chế định trung tâm, quan trọng trong Luật Hôn nhân và gia đình. Luật đã giải quyết được một số vấn đề liên quan đến quan hệ giữa vợ chồng, vấn đề cấp dưỡng, giám

hộ, ly hôn và một số vấn đề khác trong cuộc sống gia đình khi có sự kết nối giữa nam và nữ, khi nhà nước công nhận việc xác lập quan hệ giữa hai bên. So với trước đây, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có nhiều điểm mới như quy định cấm kết hôn giữa những người cùng giới tính, quy định phạm vi những người có quyền yêu cầu hủy kết hôn trái pháp luật rộng hơn.... đồng thời luật cũng bãi bỏ một số quy định không phù hợp như bỏ quy định cấm những người mắc bệnh hoa liễu kết hôn... Chế định kết hôn được xây dựng theo hướng hoàn thiện hơn, đầy đủ hơn, chặt chẽ hơn. Chế định kết hôn đã tạo nên khung pháp lý quan trọng điều chỉnh vấn đề kết hôn - xây dựng nên gia đình Việt Nam "hạnh phúc, tiến bộ và bền vững".

Bên cạnh đó, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng còn một số bất hợp lý trong quy định về kết hôn như: chưa có sự thống nhất về chế tài xử lý đối với trường hợp kết hôn vi phạm các quy định về vấn đề kết hôn của Luật Hôn nhân và gia đình và Bộ Luật Hình sự và các văn bản pháp luật khác, thẩm quyền hủy bỏ giấy chứng nhận kết hôn khi có vi phạm... Do vậy, mà trên thực tế vẫn xảy ra tình trạng kết hôn vi phạm các quy định kết hôn của Luật Hôn nhân và gia đình. Những điểm hạn chế của Luật cần sớm được sửa đổi, bổ sung để đảm bảo xây dựng nên gia đình hạnh phúc, bình đẳng - gia đình xã hội chủ nghĩa trong đó mọi người khỏe mạnh, hòa thuận, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau.

Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 với các quy định cụ thể về chế định kết hôn như: điều kiện kết hôn, đăng ký kết hôn, hủy kết hôn trái pháp luật là nhằm giáo dục ý thức tôn trọng pháp luật và thực hiện pháp luật một cách nghiêm minh, tạo điều kiện cho việc thực hiện thành công mô hình gia đình mới hòa thuận, hạnh phúc, bền vững, đảm bảo lợi ích của cá nhân, gia đình và xã hội. Đồng thời tạo cơ sở pháp lý giúp tòa án giải quyết mối quan hệ giữa các cá nhân khi có yêu cầu. Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 bổ sung các quy định mới, dễ hiểu và dễ áp dụng trong thực tiễn để củng cố gia đình xã hội chủ nghĩa, chống ảnh hưởng xấu của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến, tư sản, hạn chế các tác động tiêu cực của cơ chế thị trường đối với các quan hệ hôn nhân và gia đình trong điều kiện mới của đất nước.

Chương 3

THỰC TIỄN ÁP DỤNG CHẾ ĐỊNH KẾT HÔN

THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH VIỆT NAM NĂM 2000 VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ


3.1. VÀI NÉT KHÁI QUÁT VỀ THỰC TRẠNG KẾT HÔN Ở VIỆT NAM MỘT SỐ NĂM GẦN ĐÂY

Cho đến nay, đã chín năm kể từ ngày Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 có hiệu lực. Chín năm thi hành, Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam cùng với các văn bản hướng dẫn đã phát huy được khá nhiều tác dụng quan trọng trong việc xây dựng, củng cố gia đình xã hội chủ nghĩa; giữ gìn và phát huy những phong tục, tập quán, đạo đức tốt đẹp của dân tộc; góp phần xóa bỏ, hạn chế những tập quán lạc hậu của đồng bào dân tộc thiểu số. Chế định kết hôn theo Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam đang ngày càng được xây dựng hoàn thiện hơn, góp phần hình thành nên gia đình tiến bộ, hòa thuận, hạnh phúc và bền vững. Tuy nhiên, bên cạnh đó không tránh khỏi việc những quy định của pháp luật về vấn đề kết hôn vẫn chưa được áp dụng triệt để. Một phần xuất phát từ một nguyên nhân chủ quan, phần vì khách quan như trình độ dân trí thấp, ý thức pháp luật kém, mặt trái của nền kinh tế thị trường... nên các hiện tượng như: nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng không đăng ký kết hôn; kết hôn vi phạm điều kiện kết hôn... vẫn diễn ra trên thực tế.

Qua chín năm thi hành Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 tình trạng kết hôn vi phạm các quy định của pháp luật về việc kết hôn được thể hiện cụ thể như sau:

- Tình trạng kết hôn trước tuổi luật định diễn ra ở nhiều địa phương:

Đây là một vấn đề rất nhức nhối, diễn ra nhiều ở các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc ít người. Tại nhiều nơi có đồng bào dân tộc sinh sống, họ vẫn duy trì thói quen kết hôn khi phụ nữ 15 - 16 tuổi thậm chí

có nơi mới 13 tuổi. Theo số liệu điều tra của Vụ gia đình (Ủy ban Dân số - Gia đình và trẻ em) cho thấy, hiện nay trong cả nước có đến 15 tỉnh, thành phố có trên 1% trẻ em ở độ tuổi từ 14-16 đã có vợ chồng. Một số tỉnh có "tỷ lệ trẻ em tảo hôn cao như Hà Giang 5,72%, Cao Bằng 5,1%, Lào Cai 2,7%, Sơn La 2,6%, Quảng Trị 2,4%, Bạc Liêu 2,1%". Riêng Sơn La, "theo thống kê của Sở Tư pháp Sơn La, trong năm 2007 và 6 tháng đầu năm 2008, tại 10 huyện miền núi của tỉnh, đã có hơn 500 trường hợp vi phạm Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, kết hôn chưa đủ tuổi" [56].

Tình trạng kết hôn sớm như vậy do rất nhiều yếu tố mà chủ yếu là do phong tục tập quán dân tộc của địa phương đó. Nhiều địa phương có tâm lý muốn có con đàn cháu đông, đồng thời có thêm lao động cho gia đình. Một mặt khác do trình độ học vấn của người dân vùng dân tộc còn thấp, sự hiểu biết về pháp luật và tiếp cận thông tin đại chúng còn khó khănmột mặt tình trạng quản lý, thực thi pháp luật ở đây còn lỏng lẻo, chưa kiên quyết trong việc quản lý đăng ký kết hôn nên dẫn đến việc tảo hôn diễn ra còn khá nhiều ở các khu vực dân tộc, miền núi

Tại các xã vùng biên, vấn đề tảo hôn là một thực tế, thậm chí có nơi, nó trở thành bệnh "thâm căn cố đế" ở địa phương vùng biên giới. Chẳng hạn như ở xã Mỹ Quý Tây, huyện Đức Huệ, tỉnh Long An, (tiếp giáp vùng biên giới với Campuchia), việc tảo hôn diễn ra không phải là chuyện xa lạ, thậm chí chính quyền địa phương còn bất lực trước việc xử lý tình trạng tảo hôn tại địa phương này. Ngày 21/7/2008, chính quyền địa phương nhận được tin từ mẹ cháu T (một trường hợp kết hôn khi mới học lớp 8) rằng bố cháu đang làm "đám phạt" (một loại hình thay cho hình thức cưới ở địa phương này) thì Ủy ban nhân dân cùng các ban ngành đoàn thể xã Mỹ Quý Tây đã có mặt tại nhà bố cháu T để lập biên bản thì vấp phải sự phản ứng mạnh mẽ của bố cháu vì cho rằng gia đình chỉ tổ chức giỗ cho anh trai mình. Thậm chí khi chính quyền yêu cầu gia đình đưa cháu T đi giám định tại cơ sở y tế thì gia đình cũng không đồng ý. Sở dĩ xảy ra chuyện này cũng một phần do chính quyền

địa phương đã chưa thật sự mạnh tay trong việc xử lý, một phần nằm ở chính sự thiếu hiểu biết của các bậc làm cha làm mẹ. Có người còn nói: "Ngoài đời nó đã 17 tuổi nhưng trong giấy mới bước qua tuổi 15. Tui cũng nói với cha ruột của nó nếu hai đứa nó đồng tình thương nhau thì cho cưới hay phạt vạ tôi cũng chấp nhận". Nếu chính quyền và các bậc làm cha làm mẹ mà cứ như vậy, thiết nghĩ vấn đề tảo hôn tại các xã vùng biên sẽ không bao giờ dứt điểm được.

Chính vì kết hôn không đủ độ tuổi dẫn đến đa phần các đám cưới đó đều không đăng ký tại Ủy ban nhân dân. "Tình trạng này rất phổ biến ở các tỉnh phía Bắc như: Sơn La, Lai Châu, điển hình là Cao Bằng 80% các cặp vợ chồng lấy nhau không đăng ký kết hôn. Các tỉnh miền Trung, Tây Nguyên (Kom Tum, Đắc Lắc) cũng vậy" [18].

Khi tiến hành điều tra tại Nghệ An, thống kê cho thấy hơn 3.000 trường hợp không đăng ký kết hôn trong đó có tỷ lệ lớn là các cặp vợ chồng nhí chưa đến tuổi trưởng thành. Khi được hỏi về vấn đề đó, nhiều người đã trả lời: "Ta lấy vợ cho ta chứ có mần chi mô mà phải đăng ký. Thích thì ta lấy, còn không thì thôi". Thậm chí khi cán bộ hỏi về việc không may nhà nước có hỏi đến thì làm thế nào, họ đã rất vô tư trả lời: "Cái đó ta có hai gia đình lo cả rồi, chẳng cần đến chính quyền, mà như ta đây có mấy khi xảy ra chuyện đâuChính sách Nhà nước lo, không liên quan đến việc đăng ký kết hôn, nếu không được đi học, ở nhà giúp gia đình làm rẫy" [25].

Xuất phát từ việc làm không ý thức đó mà con số trẻ em ngoài giá thú tăng lên không chỉ ở vùng sâu, vùng xa mà ở ngay cả thủ đô. Theo báo cáo của Sở Tư pháp Hà Nội, trong vòng 3 năm từ 2005 đến 2007, con số đăng ký khai sinh cho con có cha mẹ chưa đăng ký kết hôn hoặc không đủ điều kiện đăng ký kết hôn là 2968 trường hợp.

Bảng 3.1: Số lượng trẻ đăng ký khai sinh có cha mẹ chưa hoặc không đủ điều kiện đăng ký kết hôn tại Hà Nội

Năm

2005

2006

2007

Số lượng

830

1084

1054

Trong 2.968 trường hợp trẻ em đăng ký khai sinh tại Hà Nội bao gồm cả con trong giá thú nhưng cha mẹ không đăng ký kết hôn và con ngoài giá thú. Một phần tình trạng này là do cha mẹ của trẻ chung sống với nhau nhưng lại không đăng ký kết hôn, một phần do hiện nay xuất hiện những người phụ nữ sống độc thân, sinh con mà không lập gia đình… nên càng ngày tỷ lệ trẻ em khai sinh ngoài giá thú càng có chiều hướng gia tăng.

Có những địa phương việc không đăng ký kết hôn còn là vì họ phải cưới chạy vào năm đẹp nên vội vàng cưới ngay cả khi cô dâu chú rể chưa đến tuổi đăng ký kết hôn. Điển hình là ở Hưng Yên, "hiện tượng cưới "chạy" để kịp sinh con năm Đinh Hợi bất chấp việc vi phạm pháp luật về điều kiện kết hôn. Nhiều cặp vợ chồng đã "nợ" đăng ký kết hôn do các cô dâu, chú rể chưa đến tuổi nhưng vẫn kết hôn để kịp sinh con trong năm Đinh Hợi" [28].

Nhiều trường hợp khi kết hôn, cô dâu còn chưa đủ tuổi kết hôn, thậm chí có trường hợp mới 14, 15 tuổi. Sự thiếu hiểu biết, vô trách nhiệm của các bên đã khiến nhiều trường hợp dù là tự nguyện kết hôn những vẫn vi phạm pháp luật về Hôn nhân và gia đình, thậm chí phạm tội hình sự dẫn đến đi tù.

Ngày 20/10/2008, Tòa phúc thẩm Tòa án nhân dân tối cao Thành phố Hồ Chí Minh đã y án sơ thẩm bản án của Tòa án nhân dân tỉnh Bình Phước, xử 3 năm tù cho hưởng án treo đối với Nguyễn Kim Định, 26 tuổi, người xã Bù Nho, huyện Bù Đăng, tỉnh Bình Phước về tội "giao cấu với trẻ em". Người bị hại cũng đồng thời là vợ của Định và trước đây đã được tổ chức cưới hỏi đàng hoàng. Tuy nhiên vào thời điểm 2 bên cưới nhau, vợ của Định mới 16 tuổi. Quá trình chung sống, hai bên có mâu thuẫn và chính người vợ kiện người chồng vì kết hôn với trẻ vị thành niên [70]. Trường hợp này hiện nay không phải là hiếm. Thực trạng đang cảnh báo các bạn nam lập gia đình phải chú ý đến tuổi tác người vợ, chú ý tuân thủ pháp luật nếu không hậu quả đáng tiếc sẽ xảy ra.

- Tình trạng nam nữ chung sống như vợ chồng mà không đăng ký kết hôn.

Xem tất cả 120 trang.

Ngày đăng: 13/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí