Khái Quát Tình Hình Đội Ngũ Kiểm Sát Viên Viện Kiểm Sát Nhân Dân Cấp Huyện

85


một nguyên tắc trong TTHS mà còn được quy định với những nội dung và thủ tục tranh tụng cụ thể tại phiên tòa.

Qua phân tích những vấn đề cơ bản về mô hình TTHS trên thế giới, quá trình thực hiện các hoạt động TTHS với những biểu hiện đặc trưng của mô hình TTHS pha trộn, nhất là khi các quy định mới về tranh tụng được ban hành và có hiệu lực; chúng tôi cho rằng: Mô hình TTHS phù hợp với Việt Nam là mô hình TTHS pha trộn. Trong mô hình này, Việt Nam sẽ tiếp thu những yếu tố tích cực của tranh tụng trong TTHS, đồng thời, thừa nhận yếu tố thẩm vấn thông qua hoạt động xét hỏi của chủ thể tiến hành tố tụng.

Hai là, tiếp cận dưới góc độ các hoạt động của Kiểm sát viên (Công tố viên) tại phiên tòa để khẳng định sự cần thiết phải thực hiện và coi trọng hoạt động tranh tụng tại phiên tòa hình sự của các Kiểm sát viên (Công tố viên)

Nghiên cứu về hoạt động của KSV (Công tố viên) tại các phiên tòa hình sự trên thế giới, hầu hết các nước đều thừa nhận tầm quan trọng của yếu tố tranh tụng (cho dù thực hiện theo mô hình TTHS nào), coi đó là một nhiệm vụ của KSV (Công tố viên).

Việc tiếp thu các yếu tố thuộc về ưu thế của tranh tụng, khẳng định vai trò, vị thế của Kiểm sát viên (Công tố viên), vận dụng sáng tạo trong hoạt động tranh tụng của KSV khi tranh tụng tại phiên tòa XXHS ở Việt Nam là điều cần thiết; đặc biệt là tiếp thu các yếu tố này trong tranh tụng ở Trung Quốc, Inđônêxia, Nhật Bản- những nước có quy định và hoạt động tranh tụng gần với quy định và thực hành tranh tụng ở Việt Nam. Trong đó: Thừa nhận giá trị của hoạt động tranh tụng, bãi bỏ trách nhiệm của Tòa án tiến hành hoạt động điều tra riêng của mình về tình tiết vụ việc và giao cho VKS nhiệm vụ chứng minh tội phạm trên cơ sở chứng cứ được đưa ra trước Tòa án. Nếu chứng cứ do VKS đưa ra không rõ ràng hoặc không đủ để kết án bị cáo thì Tòa án có thể tuyên bị cáo vô tội. Tòa phúc thẩm cũng có thể bác bản án sơ thẩm nếu xét thấy chứng cứ đưa ra tại Tòa án sơ thẩm không đầy đủ và các tình tiết của vụ án không đủ chứng minh hành vi phạm tội (theo quy định của Bộ luật TTHS Trung Quốc) [56]. Thẩm phán hành động tại phiên tòa với vai trò như trọng tài, phân xử kết quả tranh tụng giữa công tố và bị cáo; quy trình tiến hành

86


một phiên tòa XXHS phải thể hiện được yếu tố tranh tụng và vai trò của Công tố viên, luật sư bào chữa phải được thể hiện qua quan điểm cũng như việc phản biện công khai, rõ ràng tại phiên tòa; tòa án xác định ngày tuyên án và sẽ tuyên án vào ngày đó (ở Inđônêxia) [56]. Vai trò của Công tố viên phải được coi trọng, nhất là trong việc phát hiện, chứng minh sự thật tại phiên tòa; kết quả hoạt động của Công tố viên được phản ánh qua tỉ lệ các vụ truy tố thành công; mỗi bên (trong đó có Công tố viên) đều có quyền tự xác định, lập luận và bảo vệ ý kiến của mình thay vì Tòa án chủ động nêu vấn đề cho các bên rồi xét hỏi, phân tích chứng cứ; Thẩm phán chỉ thẩm vấn người làm chứng sau khi các bên trong vụ án đã thẩm vấn (ở Nhật Bản) [56].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 220 trang tài liệu này.

Tuy nhiên, cần nhấn mạnh, dù tiếp cận tranh tụng dưới góc độ nào thì việc tiếp thu những nhân tố mới, tích cực về tranh tụng phải phù hợp với yêu cầu, điều kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội Việt Nam. Yếu tố đặc trưng về chính trị của Việt Nam là tổ chức và hoạt động của nhà nước Việt Nam đặt dưới sự lãnh đạo của ĐCSVN. Nền kinh tế mà Việt Nam đang xây dựng là nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Nền văn hóa Việt Nam là nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc với những đặc trưng riêng. Xã hội Việt Nam với sự tồn tại của đa dạng các thành phần dân tộc, các giai cấp, trong đó nền tảng là giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức. Do vậy, mọi bảo đảm chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS phải tiệm cận với những giá trị của hoạt động tranh tụng trên thế giới, đồng thời phải giữ gìn bản sắc, truyền thống của mô hình TTHS Việt Nam với những kết quả đã đạt được trong thời gian qua. Tránh việc tiếp nhận tất cả những yếu tố thuộc về tranh tụng mà chưa có sự sàng lọc, đối chiếu, cân nhắc; hoặc bài trừ cả những yếu tố tích cực trong tranh tụng tại phiên tòa trong thực tiễn và quy định của pháp luật nước ngoài. Điều đó đòi hỏi những biện pháp cụ thể trên cả hoạt động lập pháp, hành pháp, chứ không riêng trong lĩnh vực tư pháp. Từ đó, Nhà nước Việt Nam cần phải có những ghi nhận cụ thể trong quy định của pháp luật và tổ chức thực hiện có hiệu quả trên thực tế.

87

Chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện tại phiên tòa xét xử hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay - 12


Tiểu kết chương 2

1. Tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS là hoạt động tố tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXST hình sự, thông qua việc đưa ra quan điểm, chứng cứ, lập luận, đối đáp và bảo vệ quan điểm của VKS; trên cơ sở sự thật khách quan của vụ án và quy định của pháp luật; dưới sự điều khiển của Tòa án (HĐXX) với vai trò trung gian, trọng tài; từ đó giúp cho Tòa án (HĐXX) đưa ra những phán quyết đúng người, đúng tội, đúng pháp luật. Chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS theo yêu cầu CCTP là tổng hợp các yếu tố tạo nên giá trị trong hoạt động tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXST hình sự; phản ánh mức độ tương quan trong việc đáp ứng yêu cầu của CCTP.

2. Đánh giá chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS theo yêu cầu CCTP cần phải dựa trên hệ tiêu chí nhất định. Tiêu chí đánh giá chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS là tập hợp các tính chất, dấu hiệu đặc trưng để từ đó có căn cứ xác đáng để đánh giá. Bao gồm: Sự tuân thủ đầy đủ, nghiêm chỉnh của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện đối với quy định của Bộ luật TTHS về nguyên tắc, nội dung và thủ tục tranh tụng; sự thuần thục trong kỹ năng tranh tụng; bảo đảm tiến hành tranh tụng sát với các dự kiến của KSV trước khi mở phiên tòa; thực hiện đúng quy tắc ứng xử của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện trong tranh tụng tại phiên tòa XXHS; sự đồng thuận của HĐXX với quan điểm buộc tội của VKS ban hành bản án.

3. Bảo đảm chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS cần có những điều kiện nhất định, đó là: Bảo đảm về chính trị, pháp lý, tổ chức, nguồn nhân lực và cơ sở vật chất.

Việc nghiên cứu khái quát một số vấn đề lý luận về chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS là một vấn đề cần thiết, tất yếu nhằm làm rõ cơ sở lý luận, sáng tỏ căn cứ đánh giá thực trạng hoạt động này ở chương 3 và khẳng định sự thống nhất khi đưa ra các quan điểm và giải pháp ở chương 4 của luận án.

88


Chương 3

THỰC TRẠNG CHẤT LƯỢNG TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ HÌNH SỰ THEO YÊU CẦU CẢI CÁCH TƯ PHÁP Ở VIỆT NAM

3.1. KHÁI QUÁT TÌNH HÌNH ĐỘI NGŨ KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN

Theo quy định của Luật tổ chức VKSND năm 2014 thì VKSND cấp huyện có “Viện trưởng, các Phó Viện trưởng, KSV, Kiểm tra viên, công chức khác và người lao động khác” [85]. Trong đó, KSV là chức danh hình thành bằng con đường bổ nhiệm theo quy định của pháp luật để làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp thuộc thẩm quyền VKS cấp mình theo phân công của Viện trưởng và chịu trách nhiệm trước Viện trưởng.

Theo số liệu thống kê của ngành KSND [126-129; 136-139]:

- Số lượng KSV công tác tại VKSND cấp huyện là 5.469 đồng chí, chiếm 51,65% tổng biên chế của VKSND cấp huyện (theo Nghị quyết số 522e/NQ- UBTVQH13 ngày 16/8/2012 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khóa 13).

- Tổng số Kiểm sát viên VKSND cấp huyện làm nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát XXHS: 3.628 đồng chí, chiếm tỉ lệ 66,3% số KSV cấp huyện.

- 100% KSV là Đảng viên.

- Trình độ học vấn của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện:

+ Tiến sĩ Luật: Không có.

+ Thạc sĩ Luật: 326 đồng chí, chiếm tỉ lệ 5,96%.

+ Cử nhân Luật: 5.143 đồng chí, chiếm tỉ lệ 94,03%.

- 100% KSV đều đã được đào tạo về nghiệp vụ kiểm sát.

- Trình độ lý luận chính trị:

+ Cao cấp lý luận chính trị: 910 đồng chí, chiếm tỉ lệ 16,6%.

+ Trung cấp lý luận chính trị: 3.821 đồng chí, chiếm tỉ lệ 69,8%.

+ Sơ cấp lý luận chính trị: 738 đồng chí, chiếm tỉ lệ 13,5%.

- Trình độ ngoại ngữ, tin học: 100% KSV đều có trình độ ngoại ngữ B, B1 (chủ yếu là Tiếng Anh), nhưng khả năng giao tiếp hạn chế và trình độ tin học văn

89


phòng (chủ yếu sử dụng trong soạn thảo văn bản, khả năng ứng dụng các tính năng

ưu việt của máy vi tính còn hạn chế).

- Kinh nghiệm công tác:

+ Dưới 05 năm công tác: 724 đồng chí, chiếm tỉ lệ 13,23%.

+ Từ 05 năm đến 10 năm công tác: 1.862 đồng chí, chiếm tỉ lệ 34%.

+ Trên 10 năm công tác: 2.883 đồng chí, chiếm tỉ lệ 52,7%.

- Phân loại:

+ Kiểm sát viên cao cấp: Không có

+ Kiểm sát viên trung cấp: 782 đồng chí, chiếm tỉ lệ 14,3%.

+ Kiểm sát viên sơ cấp: 4.687 đồng chí, chiếm tỉ lệ 85,7%.

Như vậy, qua số liệu nêu trên cho thấy những thuận lợi đối với công tác của KSV: Ngành KSND đã quan tâm xây dựng đội ngũ Kiểm sát viên VKSND cấp huyện. 100% đều là đảng viên, được đào tạo, bồi dưỡng thường xuyên về nghiệp vụ kiểm sát.

Tỉ lệ cán bộ có trình độ cử nhân luật (94,03%), trình độ lý luận chính trị trung cấp (69,8%), có kinh nghiệm công tác từ 10 năm trở lên (52,7%), là KSV sơ cấp (85,7%) đều chiếm đa số, đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ. Về trình độ học vấn và chuyên môn, nguồn nhân lực ngành KSND đã đạt tương đối cao so với bình quân của các ngành nói chung, nhất là về tỷ lệ đã tốt nghiệp đại học. Đây là những thuận lợi cơ bản trong thực hiện nhiệm vụ của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện nói chung và thực hiện nhiệm vụ tranh tụng tại phiên tòa XXHS nói riêng.

- Tuy nhiên, thực trạng Kiểm sát viên Viện KSND cấp huyện còn phản ánh những hạn chế:

+ Số biên chế còn thiếu, chưa đáp ứng nhu cầu nhân lực để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động tư pháp theo Chiến lược CCTP đến năm 2020, nhất là việc bổ sung các nhiệm vụ theo quy định của các Bộ luật mới (đặc biệt là Bộ luật TTHS năm 2015).

+ Số lượng thiếu chủ yếu ở VKSND cấp huyện thuộc một số tỉnh vùng Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ, do yêu cầu về tuyển dụng công chức ngành KSND là ứng viên phải có bằng tốt nghiệp đại học luật hệ chính quy, nhưng những

90


nơi này thiếu nguồn tuyển dụng; chế độ, chính sách đối với cán bộ, công chức ngành KSND chưa đủ hấp dẫn để thu hút nhân lực.

+ Hiện nay, bình quân mỗi VKSND cấp huyện có 10 biên chế, trong đó 07 hoặc 08 biên chế làm nghiệp vụ kiểm sát, trong khi đó VKSND cấp huyện phải thực hiện rất nhiều khâu công tác nghiệp vụ (thực hành quyền công tố và kiểm sát giải quyết án hình sự; kiểm sát giải quyết án dân sự; kiểm sát giải quyết án hành chính; kiểm sát công tác tạm giữ, tạm giam; kiểm sát thi hành án hình sự, dân sự; kiểm sát giải quyết khiếu nại, tố cáo; công tác văn phòng, tổng hợp, thống kê tội phạm), như vậy bình quân mỗi khâu công tác chỉ có 01 người thực hiện. Tình trạng trên xảy ra ở nhiều đơn vị VKSND cấp huyện thuộc các tỉnh, thành phố lớn [125].

- Về cơ cấu nhân lực chưa phù hợp:

+ Cơ cấu theo ngạch công chức: Nghị quyết số 522e/NQ-UBTVQH13 ngày 16/8/2012 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội khoá XIII đã xác định tổng số KSV các cấp là 10.424 người (chiếm 65,7% tổng biên chế), trong đó: Kiểm sát viên VKSND cấp huyện (nay là KSV sơ cấp): 7.714 người (chiếm 72,9% biên chế VKSND cấp huyện). Tuy nhiên, có nhiều đơn vị cấp huyện mới có 30% cán bộ có chức danh KSV nên khó khăn cho việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo pháp luật về TTHS, tố tụng dân sự và tố tụng hành chính [125].

+ Cơ cấu theo vùng miền: Có hiện tượng mất cân đối nhân lực theo vùng miền. Tại các thành phố lớn, vùng đô thị, vùng đồng bằng có điều kiện kinh tế - xã hội phát triển có nguồn tuyển dụng dồi dào, phong phú và chất lượng cao, nhưng khu vực Tây Bắc, Tây Nguyên và Tây Nam Bộ lại bị thiếu nguồn tuyển dụng trong một thời gian dài. Lý do là ngành KSND trước đây chưa có cơ sở đào tạo bậc đại học nên không thực hiện được chính sách đào tạo cử tuyển; việc thu hút nhân lực gặp nhiều khó khăn do thiếu nguồn lực về tài chính; chế độ, chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức, viên chức chưa đủ hấp dẫn [125].

- Trình độ ngoại ngữ, tin học còn hạn chế: Mặc dù các Kiểm sát viên VKSND cấp huyện đều có chứng chỉ, bằng cấp về ngoại ngữ (chủ yếu là tiếng Anh) trình độ B, B1 trở lên; nhưng do môi trường công tác nên việc học tập, duy trì và nâng cao trình độ ngoại ngữ còn rất hạn chế, đại bộ phận chưa phát huy tốt khả năng giao tiếp. Số cán bộ có khả năng trực tiếp tham gia giải quyết các vụ, việc có yếu tố nước

91


ngoài, các hội thảo, hội nghị quốc tế và các hoạt động tương trợ tư pháp khác hầu như không đáng kể. Trình độ tin học của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện ở mức sử dụng máy vi tính phục vụ công tác, nhưng chủ yếu cũng mới sử dụng để soạn thảo văn bản, khả năng ứng dụng các tính năng ưu việt của máy vi tính còn hạn chế. Bên cạnh đó, với chủ trương tổ chức phiên tòa trực tuyến, thực hiện chuyển đổi số thì yêu cầu đặt ra đối với Kiểm sát viên VKSND cấp huyện về trình độ tin học, ngoại ngữ, công nghệ thông tin đòi hỏi cao hơn.

Để đáp ứng nhu cầu công tác và theo quy hoạch nguồn nhân lực ngành KSND thì Kiểm sát viên VKSND cấp huyện cần được tăng cường cả về số lượng và chất lượng để bảo đảm thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, trong đó có việc nâng cao chất lượng tranh tụng tại phiên tòa XXHS.

3.2. ƯU ĐIỂM VÀ NGUYÊN NHÂN TRONG ĐÁNH GIÁ CHẤT LƯỢNG TRANH TỤNG CỦA KIỂM SÁT VIÊN VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN CẤP HUYỆN TẠI PHIÊN TÒA XÉT XỬ VỤ ÁN HÌNH SỰ

3.2.1. Ưu điểm

Trên cơ sở bám sát khái niệm, tiêu chí đánh giá, điều kiện bảo đảm chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS (trong chương 2); dựa trên các cơ sở đánh giá thực trạng (báo cáo tổng kết hoạt động của ngành KSND, báo cáo công tác chuyên đề của các VKS [122; 123]; khảo sát thông qua phiếu điều tra tại các cơ quan, tổ chức (VKS các cấp, tổ chức hành nghề luật sư, TAND các cấp) (Phụ lục 01, Phụ lục 02, Phụ lục 03); nghiên cứu điển hình 100 bản án công bố công khai trên trang congbobanan.toaan.gov.vn và cung cấp từ TAND cấp huyện (Phụ lục 05); chúng tôi khái quát những ưu điểm khi đánh giá chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS như sau:

Thứ nhất, Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tuân thủ nghiêm chỉnh, đầy đủ các quy định của Bộ luật TTHS về nguyên tắc cơ bản trong TTHS, về nội dung và thủ tục tranh tụng tại phiên tòa XXHS

Về mức độ tuân thủ các nguyên tắc cơ bản trong TTHS:

Việc tuân thủ các nguyên tắc cơ bản trong TTHS, nhất là các nguyên tắc quy định tại Điều 7, 8, 9, 13, 15, 16, 20, 26, 29 Bộ luật TTHS năm 2015, có ý nghĩa định hướng chung cho toàn bộ hoạt động của VKSND cấp huyện tại phiên tòa

92


XXHS, khẳng định chất lượng tranh tụng của KSV. Tại phiên tòa, mức độ tuân thủ các nguyên tắc cơ bản trong TTHS được thể hiện qua bảo đảm nội dung, yêu cầu của từng nguyên tắc trong tranh tụng. Đó là: Các Kiểm sát viên VKSND cấp huyện đều bám sát quy định của pháp luật, bảo đảm hoạt động tranh tụng theo quy định; tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân của bị cáo trước tòa; không có sự phân biệt đối xử với bị cáo vì lý do dân tộc, giới tính, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội; không dùng bất kỳ hình thức đối xử nào xâm phạm tới thân thể, tính mạng, sức khỏe của bị cáo; thừa nhận và tôn trọng sự suy đoán vô tội của bị cáo; xác định rõ trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, bị cáo có quyền nhưng không buộc phải chứng minh mình vô tội; tôn trọng quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa của bị cáo; xác định rõ trách nhiệm thực hành quyền công tố và kiểm sát tuân theo pháp luật của VKS; tôn trọng quyền dùng tiếng nói, chữ viết của bị cáo của dân tộc mình trước tòa; thực hành nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm. Điều này được ghi nhận trong các báo cáo tổng kết của ngành KSND và diễn biến thực tế tại phiên tòa XXHS. Trong đó, không có nội dung ghi nhận sự vi phạm các nguyên tắc trong TTHS của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS.

Về mức độ tuân thủ nội dung, thủ tục tranh tụng tại phiên tòa XXHS của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện:

Sự tuân thủ nội dung, thủ tục tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS thể hiện trong tuân thủ nội dung, thủ tục công bố Bản cáo trạng; nội dung, trình tự xét hỏi; nội dung, thủ tục công bố lời khai trong giai đoạn điều tra, truy tố; việc xem xét vật chứng; trình bày ý kiến; đưa ra quyết định rút một phần hoặc toàn bộ quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn; trình bày Bản luận tội; tranh luận. Thực trạng này được đánh giá qua các báo cáo tổng kết, báo cáo chuyên đề, ghi nhận diễn biến phiên tòa, thể hiện trong bản án, quyết định của Tòa án và kết quả khảo sát, đánh giá tại các cơ quan, tổ chức. Trong đó, đa số Kiểm sát viên VKSND cấp huyện đã công bố đầy đủ, rõ ràng các nội dung Bản cáo trạng, đối với phần ý kiến bổ sung, KSV không làm xấu đi tình trạng của bị cáo. Khi thực hiện xét hỏi, các KSV đã tiến hành hỏi từng người, làm rõ những tình tiết về từng sự việc, từng tội trong vụ án; KSV tuân thủ đúng quy định về công bố lời khai, thông

Xem tất cả 220 trang.

Ngày đăng: 26/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí