Chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện tại phiên tòa xét xử hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay - 15

109


Thứ nhất, về sự tuân thủ các quy định pháp luật của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện trong quá trình thực hành tranh tụng tại phiên tòa XXHS

Quá trình diễn ra phiên tòa đòi hỏi phải tuân thủ trình tự, thủ tục, trong đó có thủ tục tranh tụng. Mặc dù đa số Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tuân thủ đầy đủ, nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về nội dung và thủ tục tranh tụng tại phiên tòa; song vẫn tồn tại một bộ phận Kiểm sát viên VKSND cấp huyện chưa tuân thủ triệt để quy định này. Thể hiện ở các vấn đề sau:

- Về nội dung, hình thức và trình bày Bản cáo trạng tại phiên tòa XXHS:

Về mặt nội dung, theo quy định Bản cáo trạng phải thể hiện được đầy đủ các vấn đề: Diễn biến hành vi phạm tội; chứng cứ (xác định hành vi phạm tội của bị can); nêu rõ thủ đoạn, động cơ, mục đích phạm tội, tính chất, mức độ thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra; việc áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn, biện pháp cưỡng chế; những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự, đặc điểm nhân thân của bị can; việc thu giữ, tạm giữ tài liệu, đồ vật và việc xử lý vật chứng; nguyên nhân và điều kiện dẫn đến hành vi phạm tội và tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án. Kết luận phải nêu rõ tội danh và điều, khoản, điểm của Bộ luật Hình sự được áp dụng. Bản cáo trạng phải thể hiện nội dung thời gian ra cáo trạng; thẩm quyền của người ra Bản cáo trạng. Về mặt hình thức, theo quy định, Bản cáo trạng được trình bày theo mẫu do Viện trưởng VKSNDTC ban hành về mẫu văn bản tố tụng, văn bản nghiệp vụ thực hiện trong công tác thực hành quyền công tố, kiểm sát việc khởi tố, điều tra và truy tố. Một số hạn chế khi trình bày nội dung Bản cáo trạng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện như: Về nội dung: Trình bày không thống nhất, cụ thể về Quyết định khởi tố vụ án hình sự; viện dẫn căn cứ pháp lý chưa rõ ràng với điểm, khoản, điều cụ thể; trình bày tội danh trong kết luận và quyết định truy tố không logic, không thống nhất; mô tả hành vi phạm tội quá chi tiết ở phần kết luận trong khi mẫu Bản cáo trạng yêu cầu tổng hợp ngắn gọn hành vi phạm tội của bị can hoặc từng bị can; việc sắp xếp vai trò của từng bị can trong vụ án ở một số vụ chưa phù hợp với mức độ nguy hiểm của hành vi; khi nêu lý lịch bị can quá sơ sài (về năm sinh mà không nêu ngày, tháng, năm sinh; chỉ nêu chức vụ về Đảng, chính quyền mà không nêu chức vụ trước khi phạm tội về đoàn thể); xác định và đề nghị áp dụng tình tiết giảm nhẹ không chính xác, không được HĐXX

110


chấp nhận… Khi trình bày nội dung Bản cáo trạng trước tòa, không trình bày cụ thể các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị cáo hoặc quá nhấn mạnh, chi tiết về tình tiết tăng nặng mà trình bày sơ sài về tình tiết giảm nhẹ, gỡ tội. Về hình thức: Chưa có sự thống nhất trong trình bày Bản cáo trạng như: Trình bày tên VKS cấp trên trực tiếp, ký hiệu Bản cáo trạng; thứ tự trình bày điểm, khoản, điều trong phần Quyết định; nội dung chi tiết trong phần “Kèm theo Cáo trạng có”… (Phụ lục 06).

- Về nội dung và trình bày Bản luận tội tại phiên tòa XXHS:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 220 trang tài liệu này.

Bản luận tội của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện được quy định phải có các nội dung: Phân tích, đánh giá khách quan, toàn diện, đầy đủ những chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội; tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội; hậu quả do hành vi phạm tội gây ra; nhân thân và vai trò của bị cáo trong vụ án; tội danh, hình phạt, áp dụng điểm, khoản, điều của Bộ luật Hình sự, những tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hình sự; mức bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng, biện pháp tư pháp; nguyên nhân, điều kiện phạm tội và những tình tiết khác có ý nghĩa đối với vụ án. Đây là Bản luận tội được KSV trình bày dựa vào chứng cứ, tài liệu, đồ vật đã được kiểm tra tại phiên tòa và ý kiến của bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại, đương sự, người tham gia tố tụng khác tại phiên tòa. Phần đề nghị xử lý, KSV phải nêu rõ đề nghị kết tội bị cáo theo toàn bộ hay một phần nội dung bản cáo trạng hoặc kết luận về tội nhẹ hơn; đề nghị mức hình phạt chính, hình phạt bổ sung, biện pháp tư pháp, trách nhiệm bồi thường thiệt hại, xử lý vật chứng. Bên cạnh đó, KSV phải kiến nghị các biện pháp phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật. Một số hạn chế của KSV khi trình bày Bản luận tội như: Chưa kịp thời cập nhật diễn biến tại phiên tòa để đưa ra lập luận, bác bỏ, chấp nhận quan điểm của bị cáo, người bào chữa và chỉ rõ căn cứ chứng minh; phân tích đánh giá về tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội có vụ án còn sơ sài hoặc suy diễn; phân tích, đánh giá về nguyên nhân, điều kiện phạm tội chưa xác đáng… Khi trình bày Bản luận tội trước tòa, một số KSV viện dẫn sơ sài các chứng cứ buộc tội và chứng cứ gỡ tội, thậm chí quá lệ thuộc vào Bản luận tội đã chuẩn bị trước, chưa cập nhật những diễn biến tại phiên tòa.

111

Chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên Viện Kiểm sát nhân dân cấp huyện tại phiên tòa xét xử hình sự theo yêu cầu cải cách tư pháp ở Việt Nam hiện nay - 15


- Về nội dung và thứ tự xét hỏi; tranh luận, đối đáp với bị cáo, người bào chữa:

Khi tiến hành xét hỏi, KSV tiến hành hỏi và trình bày ý kiến để làm rõ những quyết định, hành vi tố tụng trong giai đoạn điều tra, truy tố, xét xử. Kiểm sát viên sẽ dừng việc xét hỏi khi thấy những tình tiết của vụ án đã được xem xét đầy đủ và không còn yêu cầu thêm từ phía những người khác, dưới sự điều khiển của chủ tọa phiên tòa. Kết thúc việc xét hỏi, KSV trình bày Bản luận tội và tiến hành tranh luận với bị cáo, người bào chữa, người tham gia tố tụng khác. Trong nhiều vụ án, tính chủ động trong việc đặt câu hỏi khi xét hỏi chưa cao. Một số KSV còn hỏi lại những nội dung mà chủ tọa phiên tòa đã hỏi. Việc đưa ra chứng cứ, tài liệu, lập luận để đối đáp đến cùng từng ý kiến của người bào chữa chưa được thực hiện đầy đủ; có tình trạng KSV tuyên bố giữ nguyên quan điểm trong Bản cáo trạng và Bản luận tội mà chưa có sự phân tích, giải thích, bảo vệ quan điểm thỏa đáng với chủ thể đối tụng khác.

Kết quả khảo sát qua điều tra cho thấy, vẫn còn có ý kiến đánh giá về một bộ phận Kiểm sát viên VKSND cấp huyện chưa đáp ứng yêu cầu trong việc tuân thủ quy định về nội dung, thủ tục tranh tụng tại phiên tòa XXHS như: Đánh giá chưa tuân thủ đầy đủ, triệt để hoặc chưa chủ động, sáng tạo, linh hoạt trong thực hiện các quy định hoặc hiệu quả thực hiện chưa cao, gồm: 7,4% (về trở lại việc xét hỏi), 5,2% (về kết thúc việc xét hỏi); 5,1% (về trình tự xét hỏi và việc hỏi bị cáo; bị hại, đương sự hoặc người đại diện của họ; người làm chứng; người giám định, người định giá tài sản); 4% (về trình bày ý kiến; trình tự phát biểu khi tranh luận và tranh luận tại phiên tòa); 3,8% (về trình bày, công bố báo cáo, tài liệu của cơ quan, tổ chức); 3,5% (về công bố Bản cáo trạng); 2,9% (về công bố lời khai trong giai đoạn điều tra, truy tố); 1,9% (về rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên tòa); 1,4% (về luận tội); 0,9% (về xem xét vật chứng; xem xét tại chỗ) (Phụ lục 03).

Thứ hai, về thực hành kỹ năng tranh tụng của Kiểm sát viên Viện KSND cấp huyện

Thực hành kỹ năng tranh tụng của KSV tại phiên tòa phản ánh rõ nét nhất chất lượng tranh tụng tại phiên tòa của KSV. Đánh giá về kỹ năng thực hành tranh tụng

112


tại phiên tòa XXST hình sự của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện, các ý kiến có những nhận định riêng. Bên cạnh đa số thừa nhận KSV đã đáp ứng yêu cầu chung, song còn một bộ phận KSV còn chưa đáp ứng tốt yêu cầu về kỹ năng tranh tụng. Một số hạn chế cụ thể như:

Có tình trạng KSV không chủ động xét hỏi, bỏ mặc cho HĐXX nên vai trò của KSV mờ nhạt; kỹ năng tranh tụng chưa thuần thục, lúng túng trong trình bày vấn đề, chưa sắc sảo trong đối đáp, tranh luận. Thậm chí, đã xảy ra tình trạng KSV thiếu bình tĩnh trong tranh luận, nên sử dụng thuật ngữ pháp lý, viện dẫn căn cứ pháp luật thiếu chính xác, cho nên tính thuyết phục đối với người bào chữa và HĐXX không cao.

Trong tranh tụng, có KSV chưa phát hiện những vi phạm, hạn chế của HĐXX; không đủ căn cứ để bảo vệ vững chắc quan điểm truy tố; không kịp thời điều chỉnh hướng giải quyết vụ án; dẫn đến có vụ án bị Tòa án trả hồ sơ để điều tra bổ sung, Tòa án tuyên bị cáo không phạm tội. Trong các báo cáo của các tỉnh gửi VKSND tối cao thống kê cho thấy trong thời gian từ năm 2011 đến năm 2020, cả nước có 120 bị cáo bị Tòa án cấp sơ thẩm tuyên không phạm tội; trong đó năm 2011: 18 bị cáo, năm 2012: 08 bị cáo, năm 2013: 15 bị cáo, năm 2014: 18 bị cáo,

năm 2015: 27 bị cáo, năm 2016: 10 bị cáo, năm 2017: 09 bị cáo, năm 2018: 08 bị

cáo, năm 2019: 04 bị cáo, năm 2020: 03 bị cáo [122; 123; 126; 127; 128; 129; 135;

136; 139; 145; 151]. Việc bị cáo bị tuyên không phạm tội có trách nhiệm của cả cơ quan VKS và cá nhân KSV tại phiên tòa. Điều này cũng phản ánh việc không đảm bảo tiêu chí đặt ra của ngành KSND là tỉ lệ tòa án tuyên không phạm tội phải đạt 0% để bảo đảm không có tỉ lệ oan, sai.

Xu hướng KSV tranh tụng theo hướng buộc tội vẫn tồn tại phổ biến, ít chú ý đến những tình tiết gỡ tội, giảm nhẹ hoặc những diễn biến thực tế tại phiên tòa để có thể có quyết định kịp thời, phù hợp. Trong quá trình tranh tụng, một số KSV tham gia xét hỏi nhưng thiếu tập trung, ít ghi chép, hỏi lặp lại. Khi đối đáp còn né tránh những vấn đề khó, phức tạp, chưa thể hiện rõ tinh thần đối đáp đến cùng từng ý kiến. Điều này cũng phản ánh văn hóa tranh tụng của một bộ phận KSV chưa cao.

Tình trạng KSV không nghiên cứu kỹ hồ sơ nên không nắm vững chứng cứ khi bên đối tụng trình bày, không chỉ rõ được chứng cứ đó tại bút lục nào, nội dung

113


cụ thể là gì, tác dụng trong giải quyết vụ án nên đối đáp không thuyết phục, thậm chí gây căng thẳng giữa các bên đối tụng. Kỹ năng lập luận, phân tích, đánh giá, tổng hợp của một bộ phận KSV còn hạn chế.

Kết quả khảo sát qua phiếu điều tra cho thấy: Ở mức chưa đáp ứng yêu cầu, có các ý kiến đánh giá: 11% (kỹ năng giao tiếp); 8,8% (kỹ năng xử lý các tình huống); 7,8% (kỹ năng thuyết phục, phản bác); 7,6% (kỹ năng sử dụng các công cụ, phương tiện kỹ thuật hỗ trợ); 7,5% (kỹ năng tranh luận); 6,8% (kỹ năng xét hỏi); 6% (kỹ năng quan sát, lắng nghe, đặt câu hỏi); 4,9% (kỹ năng trình bày Bản cáo trạng). Đặc biệt, trong khi nêu quan điểm cá nhân, một số ý kiến cho rằng, cần bổ sung thêm một số kỹ năng khi khảo sát đối với KSV trong quá trình tranh tụng và đều đánh giá ở mức trung bình các kỹ năng này, bao gồm: Kỹ năng sử dụng ngôn ngữ cơ thể: 78 ý kiến; kỹ năng ghi chép: 62 ý kiến; kỹ năng phân tích và bảo vệ quan điểm buộc tội: 59 ý kiến; kỹ năng ghi nhớ hồ sơ vụ án: 53 ý kiến; kỹ năng cảm hóa bị can: 44 ý kiến (Phụ lục 03).

Công tác chuẩn bị có ý nghĩa quan trọng đối với việc thực hành kỹ năng tranh tụng của KSV tại phiên tòa. Mặc dù đa số thừa nhận mức độ công tác chuẩn bị của KSV cho hoạt động tranh tụng tại phiên tòa XXST hình sự là mức khá, song một bộ phận người tham gia trả lời phiếu điều tra cho rằng, còn một bộ phận nhỏ KSV chưa đáp ứng yêu cầu công tác chuẩn bị cho hoạt động tranh tụng. Trong đó ở nội dung nghiên cứu hồ sơ vụ án, một số KSV còn chưa nắm chắc chứng cứ gỡ tội (27,4%), đánh giá chưa đầy đủ về thủ tục tố tụng và số lượng bút lục theo danh mục thống kê tài liệu có trong hồ sơ (0,9%), điều đó ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng khác là đánh giá chưa toàn diện, chưa khách quan nội dung vụ án (5,8%) (Phụ lục 03).

Ở nội dung xây dựng hồ sơ kiểm sát ở giai đoạn thực hành quyền công tố và kiểm sát XXST hình sự, nhiều tiêu chí chỉ được thừa nhận ở mức trung bình đối với một bộ phận KSV như: Phản ánh đầy đủ, chính xác trình tự tố tụng của vụ án (20,4%), phản ánh các hoạt động của KSV, Kiểm tra viên trong thực hiện chức năng, nhiệm vụ (8,3%), phản ánh việc lãnh đạo, chỉ đạo trong quá trình giải quyết vụ án (7,1%), đảm bảo số lượng các tài liệu trong hồ sơ kiểm sát án hình sự (2,2%) (Phụ lục 03).

114


Ở nội dung xây dựng Bản cáo trạng, một số KSV bị đánh giá mức độ chuẩn bị không tốt, chưa sâu sắc khi phản ánh sự đảm bảo đúng nội dung theo quy định của Bộ luật TTHS (4,6%), trình bày về hành vi phạm tội của bị can (2,8%), trình bày phần quyết định (2,5%), đảm bảo đúng thể thức theo mẫu do VKSNDTC quy định (1%), trình bày phần kết luận (1%). Khi xây dựng đề cương thẩm vấn và xét hỏi, KSV cũng có những hạn chế nhất định như chưa đảm bảo các tiêu chí sau: Tính hiệu quả của đề cương (2,4%), tính logic, khoa học của đề cương (1,4%), dự thảo bản luận tội đầy đủ căn cứ, khách quan, cụ thể (1,1%); đặc biệt, chưa dự liệu trước tất cả những tình huống có thể xảy ra trong quá trình tranh tụng (11,8%) (Phụ lục 03).

Rõ ràng, dù không phải chiếm đa số, song có thể khẳng định, một bộ phận KSV tiến hành công tác chuẩn bị và thực hành tranh tụng tại phiên tòa XXHS chưa tốt. Những biểu hiện của hạn chế này khá đa dạng như: Hạn chế trong công tác chuẩn bị hồ sơ (chưa đầy đủ, chưa đúng quy định, trích cứu thiếu, đề cương sơ sài, tính dự báo chưa cao…). Việc chuẩn bị Bản luận tội trong một số vụ án chưa đạt yêu cầu, nên việc trình bày các luận điểm, luận cứ và luận chứng chưa thuyết phục. Có tình trạng sao chép Bản cáo trạng thành Bản luận tội mà ít có sự phân tích, nên chưa dự liệu chính xác vấn đề cần kết luận. Tình trạng chung là trong Bản luận tội thường chỉ có luận điểm mà thiếu đi hoặc mờ nhạt luận cứ, luận chứng. Tại phiên tòa, thể hiện kỹ năng tranh tụng chưa sắc bén, công tác giải thích cho bị cáo và những người tham dự phiên tòa chưa rõ ràng. Một số vụ án, việc đề nghị của VKS do KSV trình bày tại phiên tòa bị HĐXX nhận định là không có cơ sở nên không được chấp nhận. Như vậy, thực trạng tiến hành các kỹ năng tranh tụng của KSV tại phiên tòa còn nhiều hạn chế. Từ đó, dẫn đến tranh tụng tại phiên tòa của một bộ phận KSV chưa phản ánh được vị thế của VKS và chưa góp phần nâng cao hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật.

Kết quả khảo sát về tác dụng phổ biến, giáo dục pháp luật mà người trả lời phiếu khảo sát trực tiếp tham dự phiên tòa cho thấy: Số phiếu đánh giá hiệu quả phổ biến, giáo dục pháp luật ở mức độ thấp nhất chiếm 2,7%. Riêng nhận định khác có các ý kiến bổ sung như sau: Hầu hết các vụ án hình sự có tác dụng răn đe, trừng phạt nhiều hơn tác dụng giáo dục: 91 ý kiến; tác dụng giáo dục tăng lên khi tiến

115


hành xử lưu động hoặc án điểm: 57 ý kiến; trong một số vụ án, cùng là KSV nhưng tác dụng giáo dục có sự khác nhau: 32 ý kiến; không chỉ có KSV thực hiện việc phổ biến, giáo dục pháp luật tại phiên tòa mà nhiều người khác cũng thực hiện nội dung này: 39 ý kiến (Phụ lục 03).

3.3.2. Nguyên nhân

Những hạn chế trong chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có những nguyên nhân chung từ cơ chế, chính sách, hệ thống pháp luật, vai trò của các chủ thể trong tranh tụng; có nguyên nhân liên quan trực tiếp tới hoạt động của ngành KSND, bao gồm công tác lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn của VKS các cấp, nhận thức, trách nhiệm, trình độ, kỹ năng của KSV, biên chế, cơ sở vật chất của ngành KSND…

Một là, cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước nói chung, quyền tư pháp nói riêng đang từng bước được hoàn thiện; hệ thống pháp luật tố tụng hình sự nói chung và về nội dung, thủ tục tranh tụng tại phiên tòa theo yêu cầu cải cách tư pháp còn bất cập.

Kiểm soát QLNN và cơ chế kiểm soát QLNN được đặc biệt quan tâm, nhất là từ sau khi Hiến pháp năm 2013 khẳng định thực hiện cơ chế phân công, phối hợp, kiểm soát giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Tuy nhiên, cơ chế đó như thế nào, vận hành cụ thể ra sao cho việc kiểm soát QLNN có hiệu quả thì còn đang là vấn đề có nhiều ý kiến khác nhau. Đặc biệt là vấn đề kiểm soát việc thực hiện quyền tư pháp của Tòa án và VKS một cách chặt chẽ, bảo đảm tính minh bạch, ngăn ngừa nguy cơ lạm quyền từ chính các cơ quan này là điều cần đặc biệt quan tâm. Vì thế, sự hình thành, vận hành cơ chế kiểm soát việc thực hiện quyền tư pháp có tác động tới hoạt động của các cơ quan tư pháp, cán bộ, công chức cơ quan đó khi thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn. Đối với KSV, với vị thế vừa là người thực hiện quyền công tố lại vừa là người kiểm sát hoạt động tư pháp tại phiên tòa nên nếu không hiểu rõ vị thế, vai trò nhiệm vụ của ngành KSND trong nhánh QLNN và chịu sự kiểm soát QLNN bởi các chủ thể khác thì dễ nảy sinh tư tưởng chủ quan trong tranh tụng. Ngoài ra, trong một thời gian khá dài, kể từ khi có Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị, tranh tụng chưa được quy định cụ thể, rõ ràng trong các văn bản quy phạm pháp luật hình sự. Điều này dẫn

116


đến việc “nhận thức và áp dụng không đúng các quy định của Bộ luật TTHS về tranh tụng từ phía HĐXX, Kiểm sát viên, Luật sư…” [105]. Chỉ đến khi Hiến pháp năm 2013 được ban hành, chính thức hiến định về nguyên tắc tranh tụng và cụ thể hóa trong Bộ luật TTHS năm 2015 thì tranh tụng được nhận thức đầy đủ hơn và hoạt động tranh tụng có những chuyển biến mới. Tuy nhiên, ngay trong quy định của Bộ luật TTHS năm 2015 cũng có những bất cập, hạn chế ảnh hưởng trực tiếp tới địa vị pháp lý, khả năng và trách nhiệm thực hiện tranh tụng tại phiên tòa của các chủ thể, trong đó có Kiểm sát viên VKSND cấp huyện. Nguyên nhân này là cơ sở để hình thành giải pháp tăng cường kiểm soát việc thực hiện quyền tư pháp của Tòa án, VKS và tiếp tục hoàn thiện pháp luật TTHS đảm bảo tranh tụng tại phiên tòa theo yêu cầu CCTP.

Hai là, tình hình tội phạm diễn biến phức tạp, công tác hướng dẫn thi hành có giai đoạn chưa kịp thời.

Tội phạm, các tranh chấp, khiếu kiện ngày càng phức tạp, số vụ án hình sự mới được khởi tố, số vụ việc trong các lĩnh vực kiểm sát hoạt động tư pháp ngày càng tăng, với nhiều vụ có quy mô, tính chất ngày càng lớn và phức tạp hơn. Trong khi đó, một số quy định mới của pháp luật chưa thống nhất, có thời điểm sự lãnh đạo của cấp ủy Đảng chưa kịp thời, công tác hướng dẫn thi hành của các cơ quan chức năng còn chậm. Điều này tạo ra nhiều khó khăn trong thống nhất nhận thức, ảnh hưởng tới quá trình tổ chức thực hiện. Do đó, nguyên nhân này liên quan mật thiết tới công tác tham mưu ban hành văn bản hướng dẫn, phối hợp thực hiện; công tác lãnh đạo, chỉ đạo của ngành KSND đối với thực hiện nhiệm vụ công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp nói chung và hoạt động tranh tụng của KSV tại phiên tòa nói riêng. Đây là cơ sở để đề ra giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy Đảng đối với nâng cao chất lượng tranh tụng của Kiểm sát viên VKSND cấp huyện tại phiên tòa XXHS.

Ba là, nhận thức pháp luật, trình độ pháp luật, năng lực nghiệp vụ và trách nhiệm công tố của một số Kiểm sát viên VKSND cấp huyện còn hạn chế.

Kiến thức pháp luật của một bộ phận KSV chưa sâu sắc, nhiều trường hợp, xuất phát từ nguyên nhân không nắm vững các quy định của pháp luật hình sự, pháp luật TTHS nên KSV không đưa ra được các căn cứ pháp lý cùng với những

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 26/05/2022