Chất lượng cho vay khách hàng doanh nghiệp tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt - 13


kỳ và kiểm tra đột xuất để bộ phận kiểm tra kiểm soát thực hiện. Mặt khác cần nâng cao chất lượng cán bộ kiểm tra, kiểm soát, cán bộ tại bộ phận này phải có kinh nghiệm nhiều năm về lĩnh vực tín dụng và có kinh nghiệm tác nghiệp thực tế.

3.2.7 Đa dạng hóa khách hàng, thực hiện chiến lược khách hàng hợp

lý:

Trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, bất kỳ một ngân hàng nào muốn tồn

tại và phát triển được để phải có chiến lược thu hút khách hàng. Ngân hàng cần thực hiện phân đoạn khách hàng trên trị trường thành các nhóm khách hàng khác nhau. Có thể phân loại thành 2 nhóm khách hàng

Nhóm khách hàng hiện tại:

Đây là nhóm khách hàng hiện đang có các giao dịch với khách hàng. Mọi cơ sở thông tin về khách hàng ngân hàng đều có thể nắm bắt được tương đối chính xác như: tình tài chính, hoạt động kinh doanh, thông tin về doanh nghiệp…. Đối với nhóm khách hàng này ngân hàng cần có chế độ chăm sóc hợp lý để duy trì lâu dài mối quan hệ giao dịch với họ.

Nhóm khách hàng lâu dài:

Ngoài việc chăm sóc các khách hàng hiện tại, ngân hàng cần phát triển, mở rộng thêm các khách hàng lâu dài vì đây là các khách hàng tiềm năng. Ngoài phân khúc các doanh nghiệp lớn cần chú trọng đến phân khúc các khách hàng là doanh nghiệp nhỏ và vừa. Trước đây các ngân hàng thường không chú ý nhiều đến các doanh nghiệp nhỏ và vừa vì sợ nhóm khách hàng này không có tài sản thế chấp, báo cáo tài chính không rõ ràng, khó đảm bảo về dòng tiền. Nhưng với bối cảnh khó khăn như hiện tại cùng với sự cạnh tranh gay gắt giữa các NHTM với nhau thì các ngân hàng cần mở rộng thêm hoạt động cho vay các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Lienvietbank cũng không ngoại lệ, với hệ thống phân phối rộng khắp trên cả nước ngân hàng này đã

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.


mở rộng cho vay trong lĩnh vực nông nghiệp lên tới 40% bao gồm các khoản vay cho các doanh nghiệp: lâm nghiệp, thủy hải sản …

Chất lượng cho vay khách hàng doanh nghiệp tại Ngân hàng Thương mại cổ phần Bưu điện Liên Việt - 13

3.2.8 Đẩy mạnh hoạt động Marketing của ngân hàng

Marketing ngân hàng là việc tổ chức, phối hợp các bộ phận ngân hàng để xác định và đáp ứng các mong muốn về dịch vụ tài chính của khách hàng nhanh chóng hiệu quả dựa trên mục tiêu sự hài lòng của khách hàng. Trong thực tế hoạt động Marketing đã mang lại rất nhiều lợi ích cho ngân hàng.

Để làm tốt việc này ngân hàng cần triển khai các nội dung như sau:

Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quảng bá, giới thiệu về ngân hàng và các sản phẩm dịch vụ của mình. Nâng cao vị thế

Góp phần thúc đẩy thương hiệu, nâng cao khả năng nhận biết, quảng bá hình ảnh, nâng cao uy tín và tăng vị thế cạnh tranh cho ngân hàng.

Đây là một trong những vai trò quan trọng nhất của marketing ngân hàng. Đặc trưng của hoạt động kinh doanh ngân hàng là các sản phẩm dịch vụ cung ứng tương đối giống nhau giữa các NHTM, do đó việc tạo ra một sự khác biệt nh m gia tăng vị thế cạnh tranh là rất quan trọng. Việc tạo lập vị thế cạnh tranh của sản phẩm dịch vụ ngân hàng phụ thuộc khá lớn vào khả năng, trình độ marketing của mỗi ngân hàng.

Marketing có thể có những cách tiếp cận khác nhau nhưng phải được tổ chức bài bản và có tính hệ thống. Có thể thuê các công ty hoặc chuyên gia nước ngoài có nhiều kinh nghiệm, quảng cáo các sản phẩm của mình trên truyền hình, thiết kế những tờ rơi, quảng cáo trên các tạp chí, báo hoặc có thể là qua tiếp xúc trực tiếp với khách hàng.

Tăng cường công tác Marketing trực tiếp đến doanh nghiệp

Theo lối làm cũ là ngân hàng sẽ chờ khách hàng đến để vay vốn. Việc làm này là thụ động, muốn đổi mới và thu hút thêm được nhiều khách hàng đến với mình ngân hàng cần có cách làm mới. Ngân hàng cần có một kế


hoạch cụ thể cho việc tiếp thị dịch vụ của mình. Ví dụ như: Thu thập danh mục các doanh nghiệp đang hoạt động trên địa bàn các chi nhánh của mình. Từ đó tiếp cận, tạo mối quan hệ tìm hiểu và giới thiệu các dịch vụ của mình cho doanh nghiệp.

3.3. Một số kiến nghị, đề xuất

3.3.1. Kiến nghị đối với Chính phủ, các Bộ, ngành và các cơ quan

Chính phủ và các Bộ, ngành cần tôn trọng quyền tự chủ và tự chịu tra ch nhiệm trong hoạt động kinh doanh của các ngân hàng cũng như của doanh nghiê p. Ngân hàng thương mại hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ, nên có khả năng nắm bắt và luân chuyển cung ứng tiền tệ trên thị trường. Qua ngân hàng thương mại, nhà nước thực hiện nhiệm vụ điều tiết tiền tệ của mình. Trong một số trường hợp đã can thiệp quá sâu vào hoạt động kinh doanh của ngân hàng làm cho hoạt động của ngân hàng gặp nhiều khó khăn.

Chính phủ cần xây dựng một hệ thống chính sách đồng bộ, nhất quán, lâu dài để tạo ra môi trường kinh tế, chính trị ổn định giúp các doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Một nền kinh tế bất ổn có thể làm cho các hộ kinh doanh nhỏ l không kịp thích nghi dẫn đến làm ăn thua lỗ và không có khả năng trả nợ ngân hàng, mặt khác nó cũng làm cho các dự báo của cán bộ tín dụng trở nên không chính xác.

Tổng cục thống kê cần đảm bảo công khai và chính xác các số liệu thống kê kinh tế, đặc biệt là các chỉ tiêu tài chính của các ngành để làm căn cứ đánh giá tình hình hoạt động của các doanh nghiệp.

Chính phủ và các Bộ, ngành cần:

- Tạo một môi trường pháp lý lành mạnh: Chính phủ cần tạo môi trường thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh, hoàn thành khung pháp lý, tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp, thiết lập mối quan hệ bảo hộ cạnh tranh đối với sản xuất trong và ngoài nước. Bảo hộ để khuyến


khích phát huy tăng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp, thực hiện điều chỉnh mức thuế nhập khẩu và hàng rào thuế quan giúp doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh. Nhưng Chính phủ cũng cần phải có chính sách hợp lý để các doanh nghiệp này không ỷ vào đó mà không chịu nâng cao tính cạnh tranh.

- Cần có những biện pháp đồng bộ để ổn định kinh tế vĩ mô: Phải xây dựng, sử dụng đồng bộ và có hệ thống các công cụ quản lý vĩ mô tạo nền kinh tế ổn định. Chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa, các công cụ lãi suất, tỷ giá hối đoái phải thực sự phù hợp với biến động thị trường, tránh gây đột biến cho hoạt động kinh doanh của đơn vị cũng như ngân hàng. Có như vậy mới tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp yên tâm và phát triển sản xuất kinh doanh.

- Đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp: thực hiện các biện pháp lành mạnh hóa tài chính doanh nghiệp, bổ xung cơ chế quản lý tài chính và hạch toán. Mỗi doanh nghiệp phải thực hiện nghiêm chỉnh chế độ kế toán thống kê, kiểm toán, xây dựng quy chế công khai hóa tài chính doanh nghiệp.

- Ngoài ra, các cơ quan chức năng có thẩm quyền cũng cần nghiêm túc thực hiện tốt hoạt động liên quan đến cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản, hạn chế các sai sót, tiêu cực trong nghiệp vụ để đảm bảo quyền lợi của các NHTM trong quá trình cầm cố, thế chấp.

3.3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nhà nước.

Tại Việt Nam, cũng như ở nhiều nước khác trên thế giới, các DN hoạt động trong môi trường chính sách và pháp lý thích hợp sẽ đóng vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Bên cạnh vai trò và tiềm năng rất to lớn của mình trong việc sản xuất hàng hoá, máy móc, thiết bị để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng và nhu cầu sản xuất của xã hội, nhất là cho các ngành sản xuất hàng tiêu dùng và các ngành thủ công


nghiệp, các DN còn góp phần tạo ra công ăn việc làm cho một số lượng lớn người lao động, tạo ra được sự phát triển cân đối giữa các vùng kinh tế… Chính vì vậy hoạt động của các doanh nghiệp này cần phải có sự quan tâm, phối hợp và giúp đỡ nhiều hơn nữa của Nhà nước, các cơ quan hữu quan và chính quyền địa phương.

Ngân hàng Nhà nước cần thường xuyên giúp đỡ các NHTM đào tạo và nâng cao nghiệp vụ thẩm định tín dụng. Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cũng cần rà soát lại các văn bản pháp luật hiện hành, hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật có liên quan đến hoạt động tín dụng nói chung cũng như quy trình cho vay nói riêng, để tránh sự chồng chéo, trái ngược nhau.

Ngân hàng Nhà nước cần:

Ngân hàng Nhà nước cần ban hành các văn bản hướng dẫn việc thi hành Luật và các văn bản khác một cách rõ ràng, chính xác và hạn chế sự thay đổi trong một thời gian ngắn.

Các đơn vị tham mưu thuộc NHNN bám sát diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ để chủ động điều hành đồng bộ, linh hoạt các công cụ chính sách tiền tệ, hỗ trợ thanh khoản cho các tổ chức tín dụng nh m ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối, ổn định mặt b ng lãi suất, tỷ giá, tạo điều kiện phấn đấu giảm lãi suất cho vay.

Cần áp dụng một cách linh hoạt những công cụ như: lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn, nghiệp vụ thị trường mở… để điều tiết cung cầu tiền tệ trên thị trường và những diễn biến bất thường của lãi suất. Tránh tình trạng để nền kinh tế bị “khát vốn hay bị “đóng băng về vốn, đồng thời tránh sự can thiệp quá sâu về mặt kỹ thuật nghiệp vụ của Ngân hàng Nhà nước vào hoạt động của các NHTM.

Cần có một quy chế cho vay và quy chế miễn giảm lãi áp dụng riêng đối với các DNV&N để các NHTM có căn cứ cụ thể hơn nữa trong việc thực hiện cho vay đối với loại hình doanh nghiệp này.


Ngân hàng Nhà nước cần nâng cao chất lượng công tác thanh tra, giám sát các NHTM trong hoạt động cho vay nhất là cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hoạt động này có thể được tiến hành theo phương thức giám sát từ xa hay kiểm tra tại chỗ. Bên cạnh việc tìm ra những bất cập trong hoạt động cho vay của các NHTM, công tác thanh tra còn phải nêu lên những kiến nghị, giải pháp để tháo gỡ, sửa chữa cho các NHTM để từ đó nâng cao được chất lượngquản lý của NHTM trong việc cho vay, hạn chế và ngăn ngừa rủi ro trong kinh doanh ngân hàng. Để làm tốt công tác này, Ngân hàng Nhà nước cũng cần phải nâng cao chất lượng đội ngũ công tác làm thanh tra, tránh một tình trạng phổ biến hiện nay là một số cán bộ có trình độ chuyên môn thấp khi vào thanh tra NHTM không phát hiện được những nguy cơ tiềm ẩn rủi ro của các món vay hay của khách hàng vay. Một số khác do không nắm chắc quy trình cho vay và các văn bản có liên quan hiện hành nên đưa ra những đòi hỏi, yêu cầu không cần thiết, không sát với thực tế, không tập trung thanh tra vào nội dung chủ yếu của công tác cho vay, dẫn đến hiệu quả của công tác thanh tra, giám sát chưa cao.

NHNN cần thiết phải đẩy mạnh và nâng cao hơn nữa vai trò của trung tâm thông tin tín dụng trong hoạt động ngân hàng. Trung tâm thông tin tín dụng là tổ chức trung gian đứng ra thu thập, cung cấp vàchia s thông tin cho các tổ chức tín dụng. Việc chia s thông tin sẽ ngăn chặn những khách hàng xấu tiếp cận tín dụng. Đồng thời, nó cũng giúp các khách hàng tốt có nhiều cơ hội tiếp cận với nguồn tín dụng với mức lãi suất thấp hơn do giảm chi phí điều tra thông tin. Qua đó giúp các tổ chức tín dụng có thể tăng trưởng dư nợ, và giúp các cá nhân, doanh nghiệp tiếp cận tín dụng một cách dễ dàng.

Ở Việt Nam, trung tâm thông tin tín dụng (CIC) trực thuộc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam được thành lập từ năm 1999. Là một tổ chức thông tin tín dụng công, CIC có 02 chức năng chủ yếu sau:


Thu thập thông tin tín dụng về người vay từ các tổ chức tín dụng và cung cấp thông tin trở lại cho các tổ chức tín dụng để phục vụ hoạt động kinh doanh.

Cung cấp thông tin tín dụng cho Ngân hàng Nhà nước để đưa ra các quy định về giám sát các tổ chức tín dụng nh m góp phần đảm bảo an toàn, phát triển bền vững hệ thống ngân hàng Việt Nam.

Trong những năm trở lại đây, tốc độ tăng trưởng hồ sơ thông tin khách hàng của Trung tâm thông tin tín dụng – Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là rất nhanh.

Tuy nhiên, hiện nay với tốc độ tăng trưởng của ngành ngân hàng ước tính là 30%/năm cùng với tốc độ tăng trưởng chóng mặt về khách hàng của các tổ chức tín dụng trong nền kinh tế; thì vai trò cũng như nhiệm vụ của trung tâm thông tin tín dụng CIC trong những năm tới là hết sức nặng nề. Để xây dựng hệ thống thông tin tín dụng lớn, phục vụ đắc lực cho hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước cần thiết phải có những biện pháp sau đối với các tổ chức tín dụng:

Đổi mới công nghệ, tăng cường các trang thiết bị hiện đại cho Trung tâm để tạo điều kiện tốt nhất cho việc thu thập, cung cấp và xử lý các thông tin.

Tích cực phối hợp với các tổ chức tín dụng và các cơ quan hữu quan trong việc thu thập, xử lý và lưu trữ thông tin nh m xây dựng kho dữ liệu cho hệ thống thông tin tín dụng Ngân hàng.

Phát triển dịch vụ chia s thông tin quan hệ tín dụng của khách hàng.

Bên cạnh đó, Ngân hàng Nhà nước cũng cần tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra, giám sát các hoạt động cho vay, chất lượng tín dụng, các quy định về phân loại nợ, tình hình nợ xấu ... của các ngân hàng, tổ chức tín dụng.


KẾT LUẬN


Ngân hàng thương mại có vai trò quan trọng và chiếm ưu thế trong nền kinh tế thị trường của Việt Nam hiện nay. Vì thế việc phát triển tín dụng Ngân hàng cho các doanh nghiệp này là chiến lược của các Ngân hàng thương mại nói chung và của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Bưu điện Liên Việt nói riêng.

Với mục tiêu nghiên cứu của đề tài là tổng hợp lý luận, phân tích, đánh giá thực trạng và đưa ra các giải pháp nh m phát triển cho vay khách hàng doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh, năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Bưu điện Liên Việt trong tiến trình hội nhập và phát triển kinh tế, luận văn đã thực hiện được những nội dung chủ yếu sau:

Một là, luận văn trình bày tổng quan những vấn đề lý luận cơ bản về chất lượng cho vay đối với khách hàng DN, bao gồm: khái niệm, đặc điểm, vai trò, nhu cầu vốn của khách hàng DN, đặc biệt đi sâu đề xuất các chỉ tiêu đánh giá chất lượng cho vay đối với khách hàng DN của NHTM.

Hai là, luận văn đi vào nghiên cứu thực trạng chất lượng cho vay đối với kha ch hàng DN ở Ngân hàng Thương mại Cổ phần Bưu điện Liên Việt cùng những vấn đề đặt ra trong hoạt động tín dụng đối với khách hàng. Qua đó, luận văn rút ra những thành công trong công tác nâng cao chất lượng cho vay khách hàng DN tại ngân hàng thời gian qua. Đồng thời, cũng nêu lên những hạn chế cần khắc phục và những nguyên nhân của những hạn chế đối với viê c nâng cao chất lượng cho vay khách hàng DN ở Ngân hàng Thương mại Cổ phần Bưu điện Liên Việt.

Ba là, trên cơ sở những nguyên nhân hạn chế và những định hướng phát triển của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Bưu điện Liên Việt, luận văn đưa

Xem tất cả 120 trang.

Ngày đăng: 04/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí