Tỷ Lệ Nợ Quá Hạn Cho Vay Hộ Nghèo Giai Đoạn 2017 - 2019


Bảng 2.10: Tỷ lệ nợ quá hạn cho vay hộ nghèo giai đoạn 2017 - 2019

Đơ vị: Tri u ồng


Chỉ tiêu

Năm 2017

Năm 2018

Năm 2019

Tổng dư nợ cho vay hộ nghèo

401,224

385,151

362,869

Nợ quá hạn cho vay hộ nghèo

1,084

9,629

7,257

Tỷ lệ nợ quá hạn cho vay hộ

nghèo (%)

0.27

2.5

2.0

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 114 trang tài liệu này.

Chất lượng cho vay hộ nghèo tại Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam - Chi nhánh Bắc Ninh - 10

(Nguồ : B t ờng niên c a Chi nhánh 2017 - 2019)


Triệu đồng

1,084

410,000

400,000

390,000

380,000

370,000

360,000

350,000

340,000

9,629

7,257

401,224

385,151

362,869

Năm 2017 Năm 2018 Năm 2019


Tổng dư nợ Nợ quá hạn

Biểu đồ 2.5: Tình hình biến động nợ quá hạn cho vay hộ nghèo năm 2017 - 2019

Tỷ lệ nợ quá hạn của ngân hàng rất thấp luôn dưới 0,5%, đây là con số phản ánh rõ nhất về chất lượng tín dụng; đối với ngân hàng thương mại nếu có được kết quả về tỷ lệ nợ quá hạn như trên thì đó là con số đáng mơ ước, thế nhưng đối với NHCSXH thì ngoài tỷ lệ nợ quá hạn thấp, ngân hàng còn phải quan tâm đến công tác phối hợp với các tổ chức Hội đoàn thể, trung tâm dậy nghề, Phòng nông nghiệp… để có những định hướng nghề nghiệp cho các hộ vay như: nuôi con gì, trồng cây gì, làm nghề gì… Để các hộ nghèo vay vốn có cơ hội làm kinh tế vươn lên thoát nghèo.


2.2.2.2.Các chỉ t u ịnh tính

Th nhất, về quy trình và th t c cho vay

Về thống tin tư vấn, hầu hết 90 hộ được điều tra đều nhận được thông tin tư vấn của ngân hàng. Điều này, chứng tỏ ngân hàng đã tích cực trong công tác tuyên truyền, tư vấn đề các hộ nghèo.

Về quy trình thủ tục cho vay, hiện nay thủ tục cho vay hộ nghèo thông qua các tổ chức chính trị - xã hội bởi các tổ TK&VV là một chủ trương mới và thực sự đơn giản cho các hộ nghèo và cận nghèo vay vốn. Tuy nhiên, trong số 90 hộ được hỏi đến thì có 8 hộ cho rằng thủ tục phức tạp, còn nhiều phiền hà chiếm đến 8,89%. Nguyên nhân là do người nghèo thường mang tâm lý e ngại đối với những thủ tục pháp lý, bởi với trình độ còn hạn chế thì những việc liên quan đến thủ tục giấy tờ đối với họ là điều rất khó khăn. Do đó, ngân hàng cần tăng cường hơn nữa những hoạt động tuyên truyền giúp cho người nghèo thật sự hiểu và nhanh nh n đối với những quy trình thủ tục xin vay. Số còn lại thì cho rằng thủ tục vay là khá phù hợp, thuận tiện cho việc vay vốn.

Cụ thể có 23 người cho thủ tục là bình thường, 41 người cho là thuận tiện và 18 người cho là rất thuận tiện.

Th hai, là nhữ về thời hạn vay

Trong 90 hộ vay vốn tại Ngân hàng có 31 hộ cho là ngắn và 59 hộ cho là phù hợp. Tuy nhiên, dù các hộ vay với các mục đích khác nhau nhưng đa số các hộ vay đều mong muốn được kéo dài thời gian trả nợ để có thể thu hồi vốn trả ngân hàng. Bởi vì các hộ nghèo khi vay vốn thì họ thường sử dụng vốn vào nhiều mục đích nên việc thu hồi vốn rất khó khăn và đòi hỏi cần phải có nhiều thời gian. Do đó trong thời gian tới, NHCSXH tỉnh Bắc Ninh cần chủ động hơn trong thời hạn cho vay nhằm tạo tâm lý yên tâm cho hộ nghèo vay vốn.

Th ba, là những ý kiến c a hộ vay về t ộ c a CBTD.


Có 66 hộ rằng CBTD của ngân hàng rất nhiệt tình giúp đỡ bà con trong quá trình vay vốn, chiếm 73,33% tổng số hộ điều tra. Còn 24 hộ chiếm 26,67 số hộ điều tra cho rằng thái độ làm việc của CBTD là bình thường và không có hộ nào phản ánh thái độ CBTD là khó khăn. CBTD là người thay mặt ngân hàng trực tiếp đưa vốn đến tận tay bà con, là người tận tình hướng dẫn bà con, là người tận tình hướng dẫn bà con sử dụng nguồn vốn sao cho hiệu quả nhất, thậm chí còn hướng dẫn bà con lập phương án sản xuất kinh doanh cho phù hợp với tiềm năng, thế mạnh của hộ, của vùng để đồng vốn thực sự đem lại lợi ích thiết thực của họ. Do đó, bản thân mỗi CBTD của ngân hàng phải thực sự nhiệt tình, cư xử đúng đắn, có tâm huyết với nghề, có những điều chỉnh hợp lý và làm hài lòng khách hàng của mình, tạo được mối quan hệ thân thiết giữa Ngân hàng với người nghèo, có như vật mới giúp cho các hộ nghèo có cuộc sống ổn định đồng thời hoạt động của ngân hàng ngày càng thuận lợi hơn.

2.3.Đánh giá chung 2.3.1.Những ưu điểm 2.3.1.1.Về mặt kinh tế

Trong giai đoạn 2017 - 2019, mặc dù có nhiều khó khăn trong công tác quản lý và điều hành nhưng dư nợ cho vay hộ nghèo vẫn tăng trưởng với tốc độ cao. Ngân hàng Chính sách xã hội tỉnh Bắc Ninh đã thực hiện tốt việc cung ứng vốn tín dụng ưu đãi, nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn để phát triển sản xuất kinh doanh cho hộ nghèo. Hàng vạn hộ nghèo được hỗ trợ vốn sản xuất, tạo công ăn việc làm, tăng thu nhập, cải thiện đời sống. NHCSXH đã giúp

37.260 hộ nghèo được vay vốn, 22.087 hộ đã thoát nghèo, góp phần làm giảm tỷ lệ hộ nghèo của tỉnh xuống còn 2.59% (năm 2019). Mặc dù mới đi vào hoạt động trong một khoảng thời gian ngắn nhưng NHCSXH đã tập trung được một nguồn lực cả về chất và lượng để xác lập một hệ thống tín dụng riêng với những chính sách ưu đãi cho hộ nghèo. Hoạt động của NHCSXH đã góp phần


đắc lực vào chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN của tỉnh.

Công tác nguồn vốn đạt kết quả tốt, đáp ứng được nhu cầu cho vay hộ nghèo tại ngân hàng. Ngân hàng đảm bảo sử dụng tối ưu nguồn vốn do trung ương cấp, tránh tình trạng vốn ứ đọng, không giải ngân kịp thời.

Dư nợ cho vay hộ nghèo ngày càng tăng, nợ quá hạn cho vay hộ nghèo tuy có tăng có giảm nhưng tỷ lệ nợ quá hạn được duy trì ở mức thấp qua các năm.

Ngân hàng đã tăng cường khâu giám sát hộ nghèo trước, trong và sau khi cho vay thông qua sự phối kết hợp với các đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội, cấp chính quyền địa phương. NHCSXH tỉnh Bắc Ninh thực hiện nghiêm túc đúng quy trình cho vay theo đúng quy định của NHNN cũng như các quy định do NHCSXH Việt Nam. Vì thế, chất lượng các khoản cho vay hộ nghèo trong thời gian gần đây được nâng cao rõ rệt.

Ngân hàng đã từng bước đơn giản hóa thủ tục vay vốn, giảm thời gian cho khách hàng trong quá trình đến giao dịch với Ngân hàng.

Ngân hàng thực hiện giao dịch với hộ nghèo thông qua việc ủy thác cho các tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn, phối hợp với các đoàn thể để tổ chức hệ thống giao dịch tại xã, phường. Vì vậy mô hình quản lý tín dụng chính sách đã tạo điều kiện cho hộ nghèo không đủ điều kiện tiếp cận với các Ngân hàng thương mại, có cơ hội tiếp cận dễ dàng với dịch vụ tín dụng NHCSXH. Các tổ tiết kiệm và vay vốn đã giúp hộ nghèo sử dụng vốn vay đúng mục đích thông qua các chương trình khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư, chuyển giao công nghệ, kỹ thuật. Đảm bảo thực hiện tốt nhất nguyên tắc dân chủ, công khai tạo lòng tin cho hộ nghèo; thực hiện phương châm: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, đảm bảo vốn tín dụng ưu đãi thực sự đến tay hộ nghèo một cách an toàn, có hiệu quả cao mà không


cần nhiều người làm việc chuyên trách, tiết kiệm tối đa chi phí quản lý cho ngân sách nhà nước.

Đội ngũ cán bộ của ngân hàng chủ yếu là các cán bộ trẻ nhưng có sự liên kết rất chặt chẽ giữa các cán bộ với nhau, đội ngũ cán bộ trẻ cùng với sự năng động nhạy bén của mình phối hợp với sự hướng dẫn chỉ bảo tận tình của các cán bộ lão thành đã tạo ra một môi trường làm việc hết sức hiệu quả, một tinh thần làm việc hăng say, đoàn kết cùng phát triển.

2.3.1.2. Về mặt xã hội

Việc ra đời NHCSXH là một chủ trương sáng suốt, phù hợp với ý Đảng lòng dân. Do đó đã nhận được sự ủng hộ nhiệt tình của cấp uỷ Đảng và chính quyền các cấp. Kết quả sau 15 năm hoạt động, ngân hàng đã tạo được lòng tin và ấn tượng tốt đ p trong nhân dân, đặc biệt là nông dân nghèo.

Hoạt động cho vay hộ nghèo đã góp phần tạo công ăn việc làm cho hàng ngàn người lao động, phát huy tiềm lực, đất đai ngành nghề, tạo điều kiện sản xuất, đẩy lùi nạn cho vay nặng lãi, tình trạng bán lúa non và cầm cố ruộng đất ở nông thôn, đời sống dân nghèo được cải thiện góp phần ổn định kinh tế, chính trị, xã hội của tỉnh.

Thực hiện kênh tín dụng hộ nghèo đã thể hiện tính nhân văn, nhân ái và trách nhiệm của cộng đồng đối với hộ nghèo, góp phần củng cố khối liên minh công nông và thể hiện bản chất tốt đ p của chế độ Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.

Thực hiện tốt dịch vụ cho vay đối với hộ nghèo đã góp phần thực hiện tốt mục tiêu XĐGN, một chính sách lớn của Đảng và nhà nước ta hiện nay. Nâng cao uy tín và vị thế của NHCSXH, nâng cao vai trò kiểm tra, kiểm soát thông qua điều hành của Ban đại diện HĐQT các cấp ở địa phương, qua bình xét đối tượng được vay vốn của các tổ chức chính trị xã hội, từng bước mở


rộng tính công khai, dân chủ và tính nhân dân sâu sắc trong hoạt động tín dụng ngân hàng.

Về phía các tổ chức chính trị xã hội: Thông qua việc nhận uỷ thác cho vay bán phần với NHCSXH, các tổ chức này đã tập hợp được nhiều hội viên hơn, tổ chức hội không ngừng được củng cố, chất lượng hoạt động của các tổ chức hội phong phú hơn, gắn kết giữa hội viên với hội viên, giữa hội viên với từng cấp hội.

Tóm lại, từ thực tiễn cho thấy chính sách tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo có hiệu quả thiết thực, góp phần ổn định và phát triển nền kinh tế xã hội, khẳng định chủ trương đúng đắn của Đảng và nhà nước về Chương trình mục tiêu quốc gia xoá đói giảm nghèo.

Với những kết quả đạt được có thể nói rằng chất lượng tín dụng của ngân hàng đang dần được nâng cao qua từng năm. Đó là sự phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn ngân hàng, thực hiện tốt các quy định của NHCSXH Việt Nam cũng như ngân hàng nhà nước.

Bên cạnh những kết quả đạt được, cho vay hộ nghèo tại ngân hàng còn tồn tại một số hạn chế cần được khắc phục.

2.3.2.Những hạn chế và nguyên nhân

2.3.2.1.Những hạn chế

Th nhất, NHCSXH tỉnh Bắc Ninh đã thực hiện đúng quy trình cho vay đối với hộ nghèo tuy nhiên khâu xác định đối tượng hộ nghèo vay vốn còn thiếu tính chính xác làm ảnh hướng tới chất lượng cho vay đối với hộ nghèo của ngân hàng. Theo quy định về cho vay đối với hộ nghèo thì đối tượng vay vốn phải là hộ nghèo thiếu vốn sản xuất nhưng việc lập danh sách hộ nghèo vay vốn ở địa phương do cộng đồng dân cư thực hiện, được Ban XĐGN xã bình xét nên phụ thuộc rất nhiều vào từng cơ sở. Nhiều địa phương việc xét chọn đối tượng vay vốn chỉ là việc lập danh sách hộ nghèo không có sự chọn


lọc, vì thế trong danh sách xét duyệt do địa phương đưa lên có nhiều đối tượng không đủ điều kiện vay vốn.

Th hai, về mức đầu tư cho một hộ nghèo vay vốn của ngân hàng tuy có tăng, nhưng so với nhu cầu của sản xuất và đời sống vẫn còn thiếu cả về quy mô vốn và cơ cấu thời gian. Năm 2019, mức bình quân 25.8 triệu đồng/1 hộ vay vốn là còn thấp chưa đáp ứng đủ nhu cầu của hộ nghèo. Vì vậy sản xuất vẫn còn gặp rất nhiều khó khăn, thiếu vốn và vẫn còn tồn tại cho vay nặng lãi…

Th ba, nguồn vốn cho vay các chương trình cho vay hộ cận nghèo, GQVL, NSVSMT còn hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu vay vốn ở địa phương. Trong khi đó nguồn vốn Ngân sách tỉnh chuyển sang NHCSXH để cho vay chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn.

Th t , nguồn vốn ngân hàng tự huy động để đáp ứng nhu cầu cho vay hộ nghèo còn rất thấp. Huy động vốn tại địa phương chỉ chiếm tỷ lệ dưới 5% trên tổng nguồn vốn, công tác huy động vốn từ hộ nghèo thông qua tổ tiết kiệm và vay vốn đã triển khai và thực hiện nhưng còn chiếm tỷ trọng nhỏ. Việc huy động nguồn vốn của các tổ chức và các cá nhân không lấy lãi hoặc lãi suất thấp ở ngân hàng còn hạn chế. Nguồn vốn của ngân hàng phụ thuộc vào sự hỗ trợ của NHCSXH trung ương, tính chủ động thấp. Do vậy, công tác cho vay cũng rơi vào tình trạng bị động. Nguồn vốn để giải ngân còn thiếu, chưa phân bổ phù hợp trong năm, có lúc bị dồn ép tăng áp lực công việc cho cả đơn vị và chưa phù hợp với đặc điểm mùa vụ sản xuất nông nghiệp của hộ nghèo ở nông thôn.

Th ă , trong những năm qua, chất lượng cho vay đối với hộ nghèo không ngừng được nâng cao, công tác xử lý nợ xấu đã có nhiều biện pháp tích cực nhưng dư nợ quá hạn vẫn cao và còn chậm so với yêu cầu. Nhiều khoản nợ đã lên kế hoạch xử lý nhưng cho đến nay vẫn kéo dài như nợ quá


hạn hộ nghèo ở xã Phù khê, thị xã Từ Sơn, ở Phường Phong Khê thành phố Bắc Ninh…

Th sáu, công tác kiểm tra, kiểm toán nội bộ của ngân hàng còn hạn chế, một số Giám đốc huyện, thị ít đi kiểm tra cấp cơ sở cấp xã để bắt nắm tình hình hoạt động của Tổ tiết kiệm và vay vốn, người dân nên chưa phát hiện kịp thời những thiếu sót trong hoạt động cho vay hộ nghèo để hạn chế tối đa rủi ro về cho vay.

2.3.2.2.Nguyên nhân c a những hạn chế

Có rất nhiều nguyên nhân gây ra những hạn chế trong hoạt động cho vay đối với hộ nghèo của ngân hàng nhưng trong phần này, tác giả chỉ đề cập tới một số nguyên nhân chính như sau:

Một là, đối tượng vay vốn: Một số UBND cấp xã chưa quan tâm đến công tác khảo sát, điều tra bổ sung kịp thời các hộ nghèo, hộ có thu nhập bằng 150% hộ nghèo hàng năm để làm căn cứ xác nhận và phê duyệt cho vay. Do đó, vẫn còn hộ gặp khó khăn, thực tế có thu nhập thấp tương đương hộ nghèo nhưng không đủ điều kiện tiếp cận nguồn vốn ưu đãi của Chính phủ. Nhưng do việc phân giao trách nhiệm quản lý, tổ chức điều tra thống kê, cập nhật số liệu chưa thực sự khoa học, không sát thực tế đã tạo ra những kẽ hở trong quản lý, hình thành nhiều danh sách khác nhau ở cơ sở, gây khó khăn cho NHCSXH trong việc thực hiện chính sách của nhà nước và dẫn tới sự mất công bằng.

Hai là, công tác tín dụng: Việc đầu tư tín dụng chính sách người thụ hưởng được ưu đãi về lãi suất, điều kiện vay vốn không phải thế chấp tài sản nên có biểu hiện trây ỳ, không chịu trả nợ khi đến hạn. Lãi suất vay quá hạn của ngân hàng không bằng lãi suất cho vay trong hạn của NHTM và sự thiếu kiên quyết của các cấp chính quyền, cơ quan thực thi pháp luật và các cơ quan quản lý chương trình về xử lý những đối tượng cố tình trây ỳ, không chịu trả

Xem tất cả 114 trang.

Ngày đăng: 02/09/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí