Nội Dung Cam Kết Về Ngân Hàng Và Lộ Tr Ình Thực Hiện

K42C

+ Việt Nam cũng có quy định về chế độ tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm

và môi giới bảo hiểm. Mức vốn pháp định tối thiểu đối với một doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam là 600 tỷ đồng (VND). Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ và môi giới bảo hiểm được yêu cầu có mức vốn tương ứng là 300 tỷ đồng và 4 tỷ đồng, được quy định tại Nghị định số 46 ngày 27/03.

Ngoài ra, theo Nghị định 46, trong thời hạn 60 ngày, kể từ khi được cấp giấy phép thành lập và hoạt động, doanh nghiệp phải sử dụng một phần vốn điều lệ để ký quỹ tại một ngân hàng thương mại hoạt động tại Việt Nam. Tổng mức tiền ký quỹ của doanh nghiệp được yêu cầu phải bằng 2% vốn pháp định và doanh nghiệp được rút toàn bộ số tiền này khi chấm dứt hoạt động.

Chính phủ cũng yêu cầu cả các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ và nhân thọ đều phải trích lập dự phòng tương ứng với trách nhiệm của doanh nghiệp đối với khách hàng. Khoản dự phòng nhàn rỗi này khi đưa vào đầu tư phải được thực hiện trực tiếp bởi doanh nghiệp bảo hiểm hoặc thông qua ủy thác đầu tư và chỉ được đầu tư tại

Việt Nam.

Doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ có thể đầu tư mua trái phiếu Chính phủ, trái phiếu doanh nghiệp có bảo lãnh hoặc không có bảo lãnh, góp vốn vào các doanh nghiệp khác tối đa 35% vốn nhàn rỗi từ dự phòng nghiệp vụ bảo hiểm.

Cũng theo Nghị định này, doanh nghiệp phải luôn duy trì khả năng thanh toán trong suốt qua trình hoạt động kinh doanh bảo hiểm. Khi có nguy cơ mất khả năng thanh toán, doanh nghiệp phải chủ động thực hiện ngay các biện pháp tự khôi phục khả năng thanh toán, đồng thời báo cáo Bộ Tài chính về thực trạng tài chính, nguyên nhân dẫn đến nguy cơ mất khả năng thanh toán và phương án khôi phục. Nếu không khôi phục được khả năng thanh toán, doanh nghiệp sẽ bị đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt.

Bên cạnh đó, Việt Nam còn đưa ra một số điều kiện khác đối với doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài như: Đ ược cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài cho phép hoạt động kinh doanh bảo hiểm trong lĩnh vực dự kiến tiến hành tại Việt Nam, đang hoạt động hợp pháp ít nhất 10 năm theo quy định của nước nơi doanh nghiệp đóng trụ sở chính tính tới thời điểm nộp hồ sơ xin cấp giấy phép.

K42C

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 147 trang tài liệu này.

Đối với lĩnh vực môi giới bảo hiểm, ngoài đảm bảo yêu cầu về lĩnh vực dự kiến

kinh doanh tại Việt Nam và thời gian hoạt động tại nơi có trụ sở chính tương tự như lĩnh vực bảo hiểm, còn phải đảm bảo điều kiện hoạt động kinh doanh có lãi trong 3 năm liền kề năm nộp hồ sơ xin cấp giấy phép.

Cam kết gia nhập WTO của Việt Nam trong lĩnh vực tài chính ngân hàng và lộ trình thực hiện - 6

1.3. Nội dung cam kết về Ngân hàng và lộ tr ình thực hiện

Đối với ngành Ngân hàng, sự kiện Việt Nam gia nhập WTO có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong bối cảnh Đề án Phát triển ngành Ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại quyết định số 112/2006/QĐ -TTg ngày 24/05/2006 và đang trong giai đoạn triển khai thực hiện với mục tiêu quan trọng là xây dựng một hệ thống ngân hàng Việt Nam hiện đại, phát triển bền vững và hội nhập kinh tế quốc tế.

Theo phân loại của GATS/WTO, lĩnh vực ngân hàng thuộc dịch vụ tài chính. Cam kết trong lĩnh vực ngân hàng bao gồm các cam kết mở cửa thị trường thể hiện trong Biểu cam kết dịch vụ và các cam kết đa phương trong Báo cáo gia nhập của Ban công tác.

1.3.1. Các nghĩa vụ của Việt Nam trong lĩnh vực Ngân hàng sau khi gia nhập WTO

GATS đã quy định những nghĩa vụ và nguyên tắc hoạt động trong thương mại dịch vụ. Các nghĩa vụ đó có thể phân loại theo 2 nhóm: Các nghĩa vụ chung được áp dụng cho tất cả các nước thành viên và nghĩa vụ thực hiện các cam kết về tiếp cận thị trường và đối xử quốc gia trong các ngành và phân ngành của mỗi nước. Theo đó, ngành Ngân hàng của Việt Nam sẽ phải tuân thủ các nghĩa vụ qui định trong GATS, cụ thể:

- Đ ãi ngộ tối huệ quốc (MFN) là một nghĩa vụ bắt buộc trong GATS. Theo đó, Việt Nam có nghĩa vụ đối xử như nhau với tất cả các nước hoặc nếu Việt Nam dành ưu đãi cho một nước thì phải dành ưu đãi đó cho tất cả các nước Thành viên, trừ khi Việt Nam có những miễn trừ MFN được nêu trong danh mục cam kết của mình khi gia nhập WTO. Như vậy, các ưu đãi áp dụng hạn chế trên cơ sở song phương sẽ được dành cho tất cả các nước thành viên WTO. Ví dụ, nếu Việt Nam dành ưu đãi cho Mỹ trong lĩnh vực

Ngân hàng theo Hiệp định thương mại song phương Việt - Mỹ (BTA) thì Việt Nam cũng

K42C

phải dành những ưu đãi tương tự trong lĩnh vực ngân hàng cho tất cả các Thành viên còn lại trong WTO.

- Nghĩa vụ minh bạch cũng là nghĩa vụ bắt buộc trong GATS. Theo đó, Việt Nam có nghĩa vụ công bố ngay các biện pháp áp dụng trong tất cả các lĩnh vực cam kết. Ít nhất mỗi năm một lần, các nước Thành viên có nghĩa vụ thông báo cho Hội đồng Thương mại dịch vụ về việc ban hành hoặc bất kỳ sửa đổi nào trong các luật, quy chế hoặc hướng dẫn hành chính có tác động cơ bản đến thương mại dịch vụ thuộc các cam kết cụ thể theo

GATS. Trong lĩnh vực ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước có nghĩa vụ thông báo và cung cấp thông tin liên quan về các quy định pháp luật ngân hàng hiện hành và việc sửa đổi bổ sung hoặc ban hành các văn bản pháp luật ngân hàng.

- Đ ãi ngộ quốc gia (NT) là một nghĩa vụ bắt buộc trong GATS. Theo đó, Việt Nam có nghĩa vụ đối xử như nhau giữa các doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp nước ngoài. Cụ thể trong lĩnh vực ngân hàng, nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng và dịch vụ ngân hàng nước ngoài được hưởng những ưu đãi ngang bằng với các nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng và dịch vụ ngân hàng trong nước; hoặc các tổ chức tín dụng nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam sẽ không bị phân biệt đối xử với các tổ chức tín dụng trong nước. Ví dụ, các chi nhánh ngân hàng nước ngoài cũng được phép phát hành thẻ tín dụng, được phép đặt máy gửi, rút tiền tự động (ATM, ADM) ở ngoài trụ sở chính như các ngân hàng thương mại trong nước.

- Theo nguyên tắc tiếp cận thị trường, Việt Nam sẽ phải loại bỏ dần các hạn chế về số lượng nhà cung cấp dịch vụ, về tổng giá trị các giao dịch, về tổng số giao dịch hoặc tống số lượng sản phẩm dịch vụ, về tổng số nhân viên được tuyển dụng, về loại hình pháp nhân hoat động trong từng lĩnh vực dịch vụ và hạn chế về tỷ lệ góp vốn của bên nước ngoài. Ví dụ, các hạn chế về số lượng nhà cung cấp dịch vụ phải được dựa trên cơ sở kiểm tra về nhu cầu kinh tế.

- Nghĩa vụ thanh toán và chuyển tiền cũng được quy định trong điều 11-GATS. Theo đó, các nước Thành viên không được áp dụng các hạn chế đối với chuyển khoản và thanh toán quốc tế trong các giao dịch vãng lai liên quan đến các cam kết cụ thể của

K42C

GATS, ngoại trừ trường hợp cán cân thanh toán gặp khó khăn. Khi đó, các nước Thành viên sẽ áp dụng một số hạn chế mang tính tạm thời và căn cứ vào những điều kiện cụ thể.


Ngoài ra, khi Việt Nam trở thành Thành viên của WTO, chúng ta sẽ phải tuân thủ nhiều nghĩa vụ khác được quy định trong các điều khoản của GATS như quy định về thông lệ kinh doanh (điều 9) và quy định thừa nhận lẫn nhau (điều 7),

1.3.2. Các cam kết đa phương về lĩnh vực Ngân hàng được thể hiện trong Báo cáo của Ban công tác

Việt Nam sẽ thực hiện các nghĩa vụ của mình đối với các vấn đề về ngoại hối theo các quy định của Hiệp định WTO và các tuyên bố, quyết định liên quan của WTO có liên quan tới quỹ tiền tệ quốc tế (IMF). Việt Nam sẽ không áp dụng bất cứ luật, quy định hoặc các biện pháp nào khác (kể cả yêu cầu liên quan tới các điều khoản hợp đồng) mà có thể hạn chế nguồn cung cấp ngoại tệ cho bất kỳ các nhân hay doanh nghiệp nào để thực hiện các giao dịch vãng lai quốc tế trong phạm vi lãnh thổ của mình ở mức liên quan tới nguồn ngoại tệ chuyển vào thuộc cá nhân hay doanh nghiệp đó. Cụ thể:

a) Cam kết về ngoại hối và thanh toán

- Đối với giao dịch vãng lai, Việt Nam cho biết các biện pháp kiểm soát giao dịch vãng lai đã được tự do hóa. Việt Nam đã quy định nghĩa vụ tạm thời phải kết hối ngoại tệ với mục đích tập trung ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng để đáp ứng các nhu cầu thiết yếu về ngoại tệ cho nền kinh tế và đã nới lỏng dần yêu cầu kết hối này khi tình hình kinh tế được cải thiện.

Việt Nam cam kết các biện pháp quản lý ngoại hối chỉ được áp dụng trong những trường hợp ngoại lệ, do Chính phủ Việt Nam quyết định, nhằm duy trì an ninh tài chính và tiền tệ quốc gia phù hợp với điều lệ của IMF và Tài liệu của IMF số 144 (52/51) ngày 14-8-1952.

Việt Nam khẳng định rằng các hạn chế đối với giao dịch vãng lai đã được bãi bỏ và không duy trì bất kỳ biện pháp nào trái với các cam kết của mình về các dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác cũng như về thanh toán giao dịch vãng lai và chuyển tiền quốc tế.

27

K42C

- Đối với các giao dịch vốn, Việt Nam đã nới lỏng các giao dịch chuyển vốn của

các nhà đầu tư nước ngoài và việc vay nước ngoài của các tổ chức cư trú, chỉ duy trì một số hạn chế về:

(1) Các giao dịch chuyển vốn ra nước ngoài để đầu tư của các tổ chức cư trú, việc chuyển vốn này phải được các cơ quan có thẩm quyền cho phép và phải trong phạm vi số ngoại tệ thuộc sở hữu của các tổ chức này; và

(2) Thanh toán và hoàn trả các khoản vay nước ngoài của các tổ chức cư trú, các giao dịch này phải đăng ký với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Tuy nhiên, các doanh nghiệp được tự do ký các hợp đồng vay nước ngoài theo Nghị định số 134/2005/NĐ -CP ngày 1-11-2005. Nghĩa vụ đăng ký các hợp đồng trung và dài hạn với Ngân hàng Nhà nước là vấn đề có tính thủ tục để phục vụ cho các mục đích thống kê và giám sát hoạt động vay nợ nước ngoài trung và dài hạn của các doanh nghiệp và phối hợp với Bộ Tài chính để bảo đảm các khoản nợ nước ngoài của quốc gia trong phạm vi an toàn. Đ ại diện của Việt Nam lưu ý rằng theo điều XII của GATS (Các hạn chế để bảo đảm an toàn cán cân thanh toán), những hạn chế như vậy có thể được xem xét áp dụng khi Việt Nam gặp phải những khó khăn về cán cân thanh toán quốc tế. Các quy định về ngoại hối của Việt Nam được IMF rà soát mỗi năm một lần, là một phần nội dung trong các đợt làm việc của Quỹ theo điều IV trong điều lệ của IMF.

- Đối với việc hoàn trả các khoản vay và các khoản đầu tư vốn ra nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam, phải theo Nghị định số 22/1999/NĐ -CP, đáp ứng các điều kiện về có giấy phép đầu tư ra nước ngoài; mở một tài khoản ngoại tệ đăng ký việc mở tài khoản và các giao dịch chuyển vốn đầu tư. Các giấy tờ cần thiết để xin giấy phép đầu tư ra nước ngoài. Các doanh nghiệp được phép đầu tư ra nước ngoài có thể chuyển lợi nhuận có được từ các khoản đầu tư của họ tại Việt Nam ra bất cứ nơi nào ở nước ngoài mà không phải thực hiện theo các thủ tục áp dụng đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Hoặc có thể mở các tài khoản ngoại tệ để thực hiện vay nước ngoài trung và dài hạn như quy định tại điểm 2, Mục I, Chương V, Phần II của Thông tư số 01/1999/TT-NHNN ngày 16-


28

K42C

4-1999 về thực hiện Nghị định số 63/1998/NĐ -CP được phép mở tài khoản ngoại tệ cho các hoạt động khác trong các trường hợp đặc biệt.

- Về cân đối ngoại tệ, Chính phủ xem xét bảo đảm cân đối nhu cầu ngoại tệ cho các nhà đầu tư nước ngoài đầu tư vào các dự án đặc biệt quan trọng trong các chương trình của Chính phủ và hỗ trợ cân đối ngoại tệ cho các dự án cơ sở hạ tầng và một số dự án quan trọng khác trong trường hợp các ngân hàng được phép giao dịch ngoại hối không thể đáp ứng tất cả các yêu cầu về ngoại tệ.

Chính phủ Việt Nam dự kiến rằng các quy định cấp phép của Chính phủ trong tương lai đối với các ngân hàng 100% vốn nước ngoài sẽ mang tính thận trọng và sẽ quy định về các vấn đề như tỷ lệ an toàn vốn, khả năng thanh toán và quản trị doanh nghiệp. Thêm vào đó, các điều kiện đối với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài và các ngân hàng 100% vốn nước ngoái sẽ được áp dụng trên cơ sở không phân biệt đối xử. Ngân hàng Nhà nước sẽ tuân thủ các quy định trong các điều 16 và 17 của GATS khi xem xét đơn xin cấp giấy phép mới, phù hợp với những hạn chế đã nêu trong Biểu cam kết về dịch vụ của Việt Nam, sẽ được đề cập sau đây. Một ngân hàng thương mại nước ngoài có thể đồng thời có một ngân hàng 100% vốn nước ngoài và các chi nhánh. Một ngân hàng 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam không được coi là một tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài và được đối xử đầy đủ như một ngân hàng thương mại của Việt Nam trong việc thiết lập hiện diện thương mại.

- Việt Nam sẽ tích cực điều chỉnh cơ chế quản lý của Việt Nam đối với các chi nhánh ngân hàng nước ngoài, bao gồm các yêu cầu về vốn tối thiểu, phù hợp với thông lệ quốc tế được thừa nhận chung

Một chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được phép mở các điểm giao dịch hoạt động phụ thuộc vào vốn chi nhánh, Việt Nam không có hạn chế về số lượng các chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Tuy nhiên, các điểm giao dịch không bao gồm các máy ATM ở ngoài trụ sở chi nhánh. Các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam được hưởng đầy đủ đối xử quốc gia về lắp đặt và vận hành các máy ATM .

- Ngoài ra Việt Nam còn giải thích rò thêm rằng tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng và các hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác được điều chỉnh bởi Luật

Xem tất cả 147 trang.

Ngày đăng: 07/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí