Cam kết gia nhập WTO của Việt Nam trong lĩnh vực tài chính ngân hàng và lộ trình thực hiện - 16

K42C

Trong điều kiện mở cửa dịch vụ ngân hàng, NHNN cần nâng cao năng lực xây

dựng và thực thi chính sách tiền tệ (CSTT) thông qua những biện pháp dự kiến được triển khai từ nay đến năm 2010 như sau:

+ Thành lập Ban Điều hành thị trường tiền tệ để tăng cường sự thống nhất, phối hợp giữa các Vụ, Cục trong điều hành CSTT;

+ Hoàn thiện các cơ chế điều hành các công cụ CSTT nhằm nâng cao hiệu quả điều tiết tiền tệ của từng công cụ, tăng cường vai trò chủ đạo của nghiệp Vụ thị trường mở trong điều hành CSTT; gắn điều hành tỷ giá với lãi suất; gắn điều hành nội tệ với điều hành ngoại tệ; nghiên cứu, lựa chọn lãi suất chủ đạo của NHNN để định hướng và điều tiết lãi suất thị trường;

+ Phát triển thị trường tiền tệ an toàn hiệu quả, tạo cơ sở quan trọng cho việc tiếp nhận và chuyển tải tác động của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế;

+ Nâng cấp và đồng bộ hóa máy móc thiết bị, chương trình phần mềm ứng dụng nối mạng các giao dịch nghiệp vụ thị trường tiền tệ và đấu thầu tín phiếu, trái phiếu chính phủ qua NHNN;

+ Tiếp tục đổi mới cơ chế điều hành tỷ giá và quản lý ngoại hối theo hướng kiểm soát có chọn lọc các giao dịch vốn (Việt Nam đã tự do hoá hoàn toàn đối với giao dịch vãng lai), giảm dần tình trạng đô -la hoá, cho phép các tổ chức và cá nhân được tham gia rộng rãi hơn vào các giao dịch hối đoái, kể cả các nghiệp vụ phái sinh;

+ Hoàn thiện hệ thống thông tin nội bộ ngành theo hướng hiện đại hoá, đảm bảo nắm bắt kịp thời, đầy đủ, chính xác thông tin về tiền tệ, tín dụng, tăng cường phối hợp trao đổi thông tin với các Bộ, Ngành để phục vụ cho việc điều hành chính sách tiền tệ;

+ Tăng cường vai trò công tác thống kê, nâng cao năng lực thu thập tổng hợp thông tin trong lĩnh vực tiền tệ, hoạt động ngân hàng và cán cân thanh toán phục vụ xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ quốc gia; và

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 147 trang tài liệu này.

K42C

+ Đổi mới một cách căn bản công tác dự báo và xây dựng CSTT hàng năm theo

Cam kết gia nhập WTO của Việt Nam trong lĩnh vực tài chính ngân hàng và lộ trình thực hiện - 16

hướng áp dụng mô hình kinh tế lượng vào phân tích dự báo và lượng hóa các mục tiêu chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ; Nâng cao năng lực phân tích và dự báo tiền tệ, dự báo lạm phát.

- Nâng cao năng lực của NHNN về thanh tra, giám sát ngân hàng


+ Cấu trúc lại mô hình tổ chức và chức năng hệ thống thanh tra theo chiều dọc gồm cả 4 khâu: cấp phép và các quy định về an toàn hoạt động ngân hàng, giám sát từ xa, thanh tra tại chỗ, xử lý vi phạm.

+ Hoàn thiện quy định về an toàn hoạt động ngân hàng phù hợp với thông lệ quốc tế (Basel 1), đồng thời đảm bảo việc tuân thủ các quy định này; ban hành quy định mới về đánh giá xếp hạng TCTD theo tiêu chuẩn CAMEL(S);

+ Xây dựng khuôn khổ, quy trình và phương pháp thanh tra, giám sát dựa trên cơ sở rủi ro; xây dựng sổ tay thanh tra tại chỗ các TCTD Việt Nam để các thanh tra viên sử dụng như cẩm nang thanh tra, giám sát; thiết lập hệ thống cảnh báo sớm để phát hiện các TCTD đang gặp khó khăn thông qua giám sát từ xa và xếp hạng TCTD; và

+ Tăng cường vai trò và năng lực hoạt động của Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam và Trung tâm Thông tin Tín dụng trong việc thu thập, xử lý và cung cấp thông tin tín dụng nhằm hỗ trợ hoạt động kinh doanh của các TCTD và hoạt động giám sát rủi ro của NHNN đối với các TCTD.

- Đẩy mạnh công tác phổ biến thông tin, tuyên truyền về Hội nhập kinh tế quốc tế,

đặc biệt là cam kết gia nhập WTO của Việt Nam trong lĩnh vực dịch vụ ngân hàng


+ Thông qua các hình thức khác nhau như tổ chức các buổi họp báo, thuyết trình, cung cấp thông tin cho báo chí... để phổ biến, giải thích các cam kết gia nhập WTO về lĩnh vực dịch vụ ngân hàng trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, bao gồm NHNN và hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam từ trung ương tới địa phương.


83

K42C

+ Định kỳ công bố các chương trình, kế hoạch hành động của ngành liên quan tới

việc thực thi các cam kết song phương và đa phương

- Đẩy mạnh tiến trình hiện đại hoá công nghệ Ngân hàng và hệ thống thanh toán bằng cách nâng cấp hạ tầng công nghệ thông tin; cải cách hệ thống kế toán ngân hàng theo các chuẩn mực quốc tế; phát triển dịch vụ Ngân hàng mới như dịch vụ Ngân hàng điện tử. Nâng cao hiệu quả tổ chức bộ máy và phát triển nguồn nhân lực; cơ cấu lại mô hình tổ chức; áp dụng cơ chế quản lý mới tại Ngân hàng Nhà nước nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động; tăng cường đổi mới công tác đào tạo. Tăng cường và tranh thủ tối đa sự hỗ trợ của các nước và các tổ chức tài chính quốc tế trong việc xây dựng chính sách và đào tạo nguồn nhân lực. Điều chỉnh mức lãi suất và phí phù hợp với thị trường dịch vụ ngân hàng Việt Nam; Về lãi suất, cần phải được điều chỉnh linh hoạt cho phù hợp với cung và cầu vốn cũng như phù hợp với việc phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ. Để hạn chế cạnh tranh không lành mạnh về lãi suất, cần tăng cường vai trò của Hiệp hội ngân hàng cũng như nâng cao vai trò của Ngân hàng Nhà nước trong việc kiểm soát, điều tiết lãi suất thị tường thông qua lãi suất định hướng của mình"

*Về phía các ngân hàng thương mại (NHTM)


- Nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng thương mại (NHTM). Điều này được thể hiện ở các mặt như:

+ Lành mạnh hóa và nâng cao năng lực tài chính cho các NHTM. Để tăng cường năng lực tài chính cho các NHTM và tạo điều kiện cho các NHTM mở rộng qui mô hoạt động và nâng cao khả năng cung ứng dịch vụ thì phải giải quyết 3 vấn đề (1) tăng vốn điều lệ; (2) tăng khả năng sinh lời và (3) tháo gỡ những khó khăn để xử lý dứt điểm nợ tồn đọng, làm sạch bảng cân đối tài sản.

Cụ thể đối với yêu cầu tăng vốn điều lệ, theo quy định của Pháp luật, mức vốn tối thiểu của các ngân hàng phải đạt từ 1000 tỷ đồng trở lên vào năm 2008 và 3000 tỷ đồng vào năm 2010. Do vậy các ngân hàng cần chủ động tăng vốn nhanh và an toàn thông qua các biện pháp như lợi nhuận giữ lại, phát hành cổ phiếu, trái phiếu, sáp nhập, hợp nhất

K42C

hay mua lại. Việc chia cổ tức thường xuyên trong 1, 2 năm trở lại đây không đảm bảo tính bền vững lâu dài. Một điều quan trọng là duy trì mức vốn điều lệ của các NHTM phù hợp với quy mô tài sản có trên cơ sở thực hiện tỷ lệ an toàn vốn tối thiều 8% vào năm 2010. Để làm được điều này thì cần phải có lượng vốn tăng thêm từ 65 đến 75 nghìn tỷ đồng

Để giải quyết 2 vấn đề còn lại, các NH cần xây dựng các định chế quản lý tài sản nợ, tài sản có, quản lý vốn, quản lý rủi ro, hệ thống thông tin quản lý (MIS)... theo đúng thông lệ quốc tế đồng thời các ngân hàng cũng cần nâng cao quyền tự chủ kinh doanh, tự chịu trách nhiệm, nâng cao khả năng dự báo thị trường để có thể vừa mở rộng khả năng kinh doanh, vừa đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng

+Phát triển nguồn nhân lực thông qua tăng cường năng lực, hiệu quả của bộ máy quản trị (Hội đồng quản trị), bộ máy điều hành (Ban điều hành); sắp xếp lại mạng lưới chi nhánh và cơ cấu tổ chức của các chi nhánh; xây dựng kế hoạch đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đến năm 2010; Cụ thể, các ngân hàng cần có chính sách thu hút, giữ chân nhân tài làm việc cho đơn vị mình. Các ngân hàng cần phải đổi mới, thay đổi chính sách đãi ngộ và sử dụng con người. Trên cơ sở nhìn nhận đánh giá đúng năng lực và trình độ của từng cá nhân để bố trí, sử dụng hợp lý, tạo môi trường làm việc văn minh, lịch sự, cạnh tranh công bằng, công khai để người lao động có động lực phấn đấu, đánh giá đúng kết quả lao động, trả lương thưởng xứng đáng với những cống hiến của họ, cần quan tâm đến đời sống của của cán bộ nhân viên từ đó có những hỗ trợ kịp thời, giúp họ giải quyết được khó khăn. Ngoài ra, các ngân hàng cần nghiên cứu chính sách lôi kéo nhân tài và tận dụng nguồn chất xám trong xã hội bằng cách lôi kéo các sinh viên giỏi về đầu quan, tuyển mạng lưới cộng tác viên làm việc part - time.

+ Hiện đại hóa công nghệ trong đó đặc biệt là phát triển các kênh giao dịch điện tử; hoàn thiện xây dựng các phần mềm quản lý nghiệp vụ ngân hàng cơ bản (quản lý tín dụng, tài trợ thương mại, ngân hàng bán lẻ, ngân hàng đầu tư, quản lý tài chính - kế toán, dịch vụ thanh toán); và triển khai hệ thống giao dịch trực tuyến đến hầu hết các chi nhánh

K42C


+ Nâng cao hiệu lực quản lý và tăng cường năng lực quản trị rủi ro;

+ Nâng cao chất lượng dịch vụ truyền thống, mở rộng và đa dạng hóa dịch vụ

ngân hàng. Các ngân hàng trong nước đang có lợi thế so với các ngân hàng nước ngoài về yếu tố thị trường (có thị trường, có khách hàng truyền thống) và có mạng lưới giao dịch trên toàn quốc vì vậy, các ngân hàng cần nâng cao chấtluwowngjc ác dịch vụ truyền thống theo hướng tăng tiện ích đối với khách hàng truyền thống và thu hút khách hàng mới. bằng cách (1) cải tiến quy trình nghiệp vụ huy động vốn theo hướng ngày càng đơn giản, thuận tiện cho khách hàng, (2) trang bị mấy móc thiết bị để mở rộng mạng lưới nhằm mở rộng nâng cao chất lượng dịch vụ thanh toán, chuyển tiền trong và ngoài nước,

(3) có chương trình Marketing rộng rãi, chương trình khuyến mại để thu hút khách hàng. Bên cạnh đó, các NHTM cần phát triển các hình thức dịch vụ như: kinh doanh ngoại hối, môi giới bất động sản, cho thuê két sắt an toàn, phát triển dịch vụ thanh toán thẻ, dịch vụ tư vấn đầu tư và các dịch vụ về đại lý thanh toán và chuyển tiền phát tiển dịch vụ chiết khấu thương phiếu, cho thuê và bán tài sản trả góp, dịch vụ bảo quản, ký gửi, ủy thác; Các ngân hàng phải ý thức được việc thay đổi cách thức cạnh tranh, thay vì cạnh tranh chủ yếu dựa vào giá cả dịch vụ và mở rộng mạng lưới bằng cách tạo ra sự khác biệt

trong chất lượng dịch vụ, công nghệ, uy tín, thương hiệu. Phấn đấu đến năm 2010 hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ xúng tầm với các nước trong khu vực ASEAN.

+ Đẩy nhanh quá trình tích tụ vốn và tài sản để hình thành một số tập đoàn tài chính ngân hàng có quy mô hoạt động lớn, trình độ công nghệ hiện đại, quản trị điều hành tiên tiến và có khả năng cạnh tranh quốc tế.

- Các NHTM Nhà nước cần khẩn trương đẩy nhanh cổ phần hóa, phấn đấu ngày càng nhiều ngân hàng được lên sàn giao dịch chứng khoán. Cùng với quyết tâm của Chính phủ, bản thân các NHTM Nhà nước cũng phải chủ động, tích cực hoàn thành việc định giá tài sản để chuẩn bị cho công việc phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng và tiến tới niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Một thực tế là giá cổ phiếu của các ngân hàng thương mại tăng và khối lượng giao dịch lớn, cho thấy những kỳ vọng của công chúng đối với các NHTM đang ngày càng được nâng lên.

K42C

- Phát triển các kênh phân phối ra nước ngoài dưới các hình thức như thành lập

chi nhánh, đại diện thương mại của ngân hàng Việt Nam ở nước ngoài, đặc biệt ở các nước có quan hệ đầu tư và thương mại lớn với Việt Nam như Mỹ, EU, và một số nước châu Á nhằm từng bước thâm nhập và cạnh tranh cung cấp dịch vụ ngân hàng trên thị trường quốc tế. Mở rộng quan hệ đại lý quốc tế để cung cấp các dịch vụ ngân hàng qua biên giới. Tăng cường tham gia hệ thống chuyển tiền nhanh quốc tế, các hiệp định thanh toán và chuyển tiền đa biên.

- Đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật và công nghệ tiên tiến phù hợp với trình độ phát triển của hệ thống ngân hàng phát triển hệ thống giao dịch trực tuyến, mạng diện rộng và hệ thống công nghệ thông tin. Hiện đại hóa các hệ thống thanh toán ngân hàng theo hướng tự dộng hóa. Phấn đấu đến năm 2010, phần lớn các nghiệp vụ ngân hàng cơ bản được tự động hóa đặc biệt ưu tiên cho các nghiệp vụ thanh toán tín dụng, kế toán quản lý rủi ro.

c)Kiến nghị nhằm nâng cao tính cạnh tranh của các NHTM Việt Nam sau khi gia nhậpWTO

- Về vấn đề nâng cao chất lượng dịch vụ: Nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng là vấn đề sống còn trong cạnh tranh của các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ tài chính. Để nâng cao chất lượng dịch vụ tài chính các doanh nghiệp cần chú trọng các biện pháp nâng cao trình độ nghiệp vụ, kĩ năng khai thác dịch vụ, thái độ phục vụ cho đội ngũ cán bộ, nhân viên của mình; hoàn thiện các qui trình nghiệp vụ; đồng thời tăng cường các biện pháp kiểm tra, giám sát và quản lý rủi ro; nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc khách hàng.

- Về chiến lược vừa hợp tác, vừa cạnh tranh: Các nền kinh tế thành công đi liền với hệ thống ngân hàng lành mạnh và hiệu quả. Lộ trình của Việt Nam cho thấy chúng ta đang đi đúng hướng nhằm phát triển một cơ sở hạ tầng tài chính thích hợp nhằm đáp ứng sự tăng trưởng của nền kinh tế. Theo đó, các ngân hàng việt Nam cần xác định rò cạnh tranh hay hợp tác ở khu vực nào cho phù hợp và mang lại hiệu quả cao nhất. Không nên chỉ cho rằng các ngân hàng nước ngoài là một sự đe dọa đối với các ngân hàng nội địa.

K42C

Nhiều ngân hàng nước ngoài, như HSBC, sẵn sàng chia sẻ kinh nghiệm và kỹ năng quốc tế về công nghệ tiên tiến, phát triển sản phẩm, quản lý rủi ro và quản trị doanh nghiệp với các đối tác trong nước. Các ngân hàng Việt Nam, thông qua mối quan hệ đối tác chiến lược với các đối tác nước ngoài, có thể phát triển với tốc độ nhanh hơn. Ngoài ra, cũng cần thấy rằng các hoạt động của ngân hàng nước ngoài nhằm cung cấp sản phẩm dịch vụ cho các ngân hàng (bank to bank), hoạt động bán buôn vốn và các sản phẩm tài chính cho ngân hàng...sẽ không phải là hoạt động cạnh tranh đối với các ngân hàng Việt Nam mà ngược lại, sẽ là bổ trợ tích cực cho các ngân hàng Việt Nam. Dịch vụ ngân hàng phục vụ công ty là khu vực cạnh tranh với các ngân hàng nội địa, tuy nhiên cạnh tranh mạnh chủ yếu trong cung cấp dịch vụ cho các công ty lớn trong nước. Sau đợt điều chỉnh lại chiến lược đầu những năm 2000, một số ngân hàng đã hoàn toàn rút khỏi hoạt động này tại thị trường Việt Nam. Số còn lại sẽ tiếp tục duy trì hoạt động này ở mức chưa cao trong thời gian trước mắt, song sẽ tích cực hơn trong tương lai trung hạn. Trong dài hạn, khu vực doanh nghiệp nội địa loại vừa có thể là đối tượng khách hàng tiềm năng mà một số ngân hàng nước ngoài sẽ cạnh tranh để giành lấy. Về dịch vụ ngân hàng bán lẻ và dịch vụ ngân hàng dành cho cá nhân, hiện đã có 2 ngân hàng hoạt động dịch vụ ngân hàng bán lẻ ở thị trường Việt Nam là ANZ và HSBC. Và như vậy đã bắt đầu xuất hiện sự cạnh tranh của các ngân hàng nước ngoài ở khu vực này. Citibank chắc chắn sẽ triển khai hoạt động này ở Việt Nam. Ngoài ra, có thể có một số ngân hàng khác nữa. Khu vực này sẽ là khu vực cạnh tranh khốc liệt nhất trong trung hạn và dài hạn.

Trong tình hình mới hiện nay, nhất là từ khi gia nhập WTO, khi hội nhập kinh tế quốc tế nền kinh tế Việt Nam đã và sẽ đón nhận thêm nhiều cơ hội mới nhưng đồng thời cũng đối mặt với những thách thức có thể phát sinh. Để bảo đảm hội nhập kinh tế quốc tế thành công trong lĩnh vực Ngân hàng, ngành Ngân hàng Việt Nam cần tạo lập và phát huy những nhân tố quan trọng đó là sự quyết tâm, và phát huy tối đa những thuận lợi, khắc phục mọi khó khăn, vướng mắc trong quá trình hội nhập. Với một số đề xuất về phương hướng nhiệm vụ và các giải pháp triển khai thực hiện, bài khóa luận này hy vọng đóng góp được phần nhỏ bé vào quá trình tiến lên vững chắc trên con đường hội nhập kinh tế quốc tế của ngành Ngân hàng Việt Nam.

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 07/06/2022