Ý Nghĩa Và Hiệu Quả Kinh Tế Của Biện Pháp Cầm Cố Tài Sản, Thế Chấp Tài Sản Tại Gp.bank

thế chấp tài sản đó, bên nhận thế chấp tiến hành có văn bản thông báo đến tổ chức bảo hiểm biết để khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra, tổ chức bảo hiểm sẽ chi trả số tiền bảo hiểm trực tiếp cho bên nhận thế chấp. Trường hợp bên nhận thế chấp không thông báo cho tổ chức bảo hiểm thì tổ chức bảo hiểm sẽ thực hiện theo Hợp đồng giữa tổ chức bảo hiểm và bên thế chấp. Bên thế chấp có trách nhiệm thanh toán với bên nhận thế chấp;

Trường hợp tài sản thế chấp bị hư hỏng hoặc bị tiêu hủy không phải do lỗi của bên thế chấp và tài sản đó cũng không được bảo hiểm thì bên nhận thế chấp phải gánh chịu rủi ro này, cụ thể là bên có quyền không còn tài sản thế chấp và nghĩa vụ của bên thế chấp trở thành nghĩa vụ không có bảo đảm.

+ Vì vậy, để đảm bảo tránh rủi ro nhất định ngân hàng yêu cầu khách hàng tiến hành mua bảo hiểm đối với những tài sản dễ hư hỏng hay giảm sút giá trị đặc biệt phải kể đến ở đây là ô tô, tàu thuyền. Đồng thời cần có những thỏa thuận rõ ràng về việc số tiền bảo hiểm sẽ được chuyển cho ngân hàng nếu việc đền bù xảy ra trong giai đoạn tài sản đang được thế chấp tại ngân hàng.

+ Đồng thời, do hiện nay không có quy định về việc: tổ chức bảo hiểm thực hiện việc chi trả toàn bộ số tiền bảo hiểm hay theo phần tương ứng với nghĩa vụ của bên thế chấp cho bên nhận thế chấp. Vì vậy, ngân hàng cần có thỏa thuận về việc sẽ nhận toàn bộ số tiền được bảo hiểm. Việc xử lý thừa thiếu số tiền bảo hiểm đó được thực hiện theo quy định của pháp luật về thanh toán các nghĩa vụ sau khi xử lý tài sản thế chấp.

* Một số quy định như: Một tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ hoặc dùng nhiều tài sản để bảo đảm cho một nghĩa vụ; tài sản thế chấp thuộc sở hữu của bên thế chấp và được phép giao dịch được thực hiện như biện pháp cầm cố tài sản.

1.2.2. Hình thức thế chấp tài sản

Việc thế chấp tài sản phải được lập thành văn bản, có thể lập thành văn bản riêng hoặc ghi trong hợp đồng chính. Trong trường hợp pháp luật có quy định thì văn bản thế chấp phải được công chứng, chứng thực hoặc đăng ký giao dịch bảo đảm.

1.2.3. Nội dung thế chấp tài sản

- Xuất phát từ việc không phải chuyển giao tài sản nên phát sinh nhiều quyền và nghĩa vụ đối với bên thế chấp và bên nhận thế chấp, đặc biệt bên thế chấp tài sản có nhiều quyền "linh hoạt" đối với tài sản thế chấp, cụ thể:

+ Được đầu tư để làm tăng giá trị của tài sản thế chấp;

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 93 trang tài liệu này.

+ Được bán, thay thế tài sản thế chấp, nếu tài sản đó là hàng hoá luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh. Trong trường hợp bán tài sản thế chấp là hàng hoá luân chuyển trong quá trình sản xuất, kinh doanh thì quyền yêu cầu bên mua thanh toán tiền, số tiền thu được hoặc tài sản hình thành từ số tiền thu được trở thành tài sản thế chấp thay thế cho số tài sản đã bán. Việc thực hiện quy định này trên thực tế có rất nhiều bất cập và gây ra nhiều khó khăn cũng như tổn thất vô cùng lớn cho các ngân hàng;

+ Yêu cầu bên thế chấp phải cung cấp thông tin về thực trạng tài sản thế chấp;

Cầm cố tài sản và thế chấp tài sản tại Ngân hàng thương mại cổ phần Dầu khí Toàn cầu GP.Bank - 4

+ Yêu cầu bên thuê, bên mượn tài sản thế chấp phải chấm dứt việc sử dụng tài sản thế chấp, nếu việc sử dụng làm mất giá trị hoặc giảm sút giá trị của tài sản đó;

+ Yêu cầu bên thế chấp áp dụng các biện pháp cần thiết để bảo toàn tài sản, giá trị tài sản trong trường hợp có nguy cơ làm mất giá trị hoặc giảm sút giá trị của tài sản do việc khai thác, sử dụng;

+ Yêu cầu bên thế chấp hoặc người thứ ba giữ tài sản thế chấp giao tài sản đó cho mình để xử lý trong trường hợp đến hạn thực hiện nghĩa vụ mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ;

+ Bên thế chấp có nghĩa vụ bảo quản, giữ gìn tài sản thế chấp đồng thời tạo mọi điều kiện để bên nhận thế chấp thực hiện quyền giám sát, kiểm tra quá trình hình thành tài sản.

- Khi chấm dứt việc thế chấp, bên nhận thế chấp:

+ Phải hoàn trả cho bên thế chấp giấy tờ về tài sản thế chấp;

+ Yêu cầu cơ quan nhà nước có thẩm quyền đăng ký giao dịch bảo đảm xoá đăng ký đối với tài sản có đăng ký giao dịch bảo đảm.

- Và việc thế chấp tài sản chấm dứt trong các trường hợp sau đây:

+ Nghĩa vụ được bảo đảm bằng thế chấp chấm dứt;

+ Việc thế chấp tài sản được hủy bỏ hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác;

+ Tài sản thế chấp đã được xử lý;

+ Theo thoả thuận của các bên.

- Việc hủy bỏ thế chấp tài sản được đặt ra như sau:

+ Đối với những trường hợp pháp luật quy định bắt buộc phải có biện pháp bảo đảm thì không thể đặt ra "việc hủy" kể cả trong trường hợp hai bên đều đồng ý;

+ Đối với trường hợp, mặc dù bên nhận thế chấp không đồng ý nhưng "việc hủy" vẫn đặt ra. Ví dụ: trường hợp tài sản thế chấp bị trưng mua hoặc bị tịch thu theo quy định của pháp luật.

- Theo đó, các bước khi xử lý tài sản thế chấp được thực hiện như sau:

Điều 355 Bộ luật Dân sự: "Trong trường hợp đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì việc xử lý tài sản thế chấp được thực hiện theo quy định tại Điều 336 và Điều 338 của Bộ luật này" [49].

Điều 57 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP được sửa đổi bổ sung Nghị định số 11/2012/NĐ-CP:

1. Trong trường hợp bên bảo đảm là bên có nghĩa vụ bị phá sản thì tài sản bảo đảm được xử lý theo quy định của pháp luật về phá sản và Nghị định này để thực hiện nghĩa vụ; trường hợp pháp luật về phá sản có quy định khác với Nghị định này về việc xử lý tài sản bảo đảm thì áp dụng các quy định của pháp luật về phá sản;

2. Trong trường hợp bên bảo đảm là người thứ ba cầm cố, thế chấp tài sản bị phá sản thì tài sản bảo đảm được xử lý như sau:

a) Nếu nghĩa vụ được bảo đảm đã đến hạn thực hiện mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì tài sản bảo đảm được xử lý theo quy định tại khoản 1 Điều này để thực hiện nghĩa vụ; b) Nếu nghĩa vụ được bảo đảm chưa đến hạn thực hiện thì tài sản bảo đảm được xử lý theo thoả thuận của các bên; trong trường hợp không có thoả thuận thì tài sản bảo đảm được xử lý theo quy định của pháp luật về phá sản để thực hiện nghĩa vụ khác của bên bảo đảm [28].

Trong trường hợp đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì việc xử lý tài sản thế chấp được thực hiện tương tự như xử lý tài sản trong trường hợp cầm cố tài sản. Riêng đối với một số tài sản đặc thù được hướng dẫn tại văn bản dưới luật sẽ được trình bày tại Chương 2 - Thực trạng các quy định về cầm cố tài sản, thế chấp tài sản của pháp luật.

1.3. Ý NGHĨA VÀ HIỆU QUẢ KINH TẾ CỦA BIỆN PHÁP CẦM CỐ TÀI SẢN, THẾ CHẤP TÀI SẢN TẠI GP.BANK

Là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, việc cấp tín dụng an toàn là mục tiêu hàng đầu của GP.Bank. Vì vậy, hiệu quả bảo đảm tiền vay là một trong những mục tiêu quan trọng ngân hàng luôn hướng tới. Một khách hàng tốt thôi chưa đủ mà phải là một khách tốt và tài sản bảo đảm tốt mới đủ để

một khoản vay được coi là "an toàn". Bởi trên thực tế, dù cho ngân hàng có thẩm định dự án vay vốn của khách hàng, đánh giá phương án sản xuất kinh doanh, phân tích tài chính khách hàng tốt đến đâu đi chăng nữa vẫn không thể nói là có sự hoàn hảo, không tồn tại rủi ro bất trắc nào vì ngoài ra còn kể đến những biến đổi thị hiếu, những biến động kinh tế trong và ngoài nước chưa thể lường hết được. Bản thân khách hàng khi vay vốn ngân hàng họ không hề có ý định trốn tránh trách nhiệm trả nợ của mình đối với ngân hàng nhưng họ bị lâm vào những tình huống bất ngờ, mất khả năng trả nợ cho ngân hàng từ đó có tâm lý trốn tránh trách nhiệm trả nợ.

Hai biện pháp chủ yếu được sử dụng tại GP.Bank là cầm cố tài sản và thế chấp tài sản. Mục đích chính: thu hồi lại được nguồn vốn khi khách hàng vay không có khả năng hoàn trả món nợ vay, tại thời điểm đó ngân hàng đang nắm giữ tài sản cầm cố, tài sản thế chấp; ngân hàng có quyền được đem những tài sản đó ra phát mại thu hồi lại khoản đã cho vay. Biện pháp này giảm thiểu rủi ro cho phía ngân hàng. Qua thực tế áp dụng hai biện pháp này tại GP.Bank, nhận thấy một số "thói quen" như sau:

* Đối với biện pháp cầm cố tài sản:

- Tài sản nhận cầm cố chủ yếu là động sản và phải được định giá (chủ yếu là cổ phiếu, thẻ tiết kiệm, hợp đồng tiền gửi, chứng thư bảo lãnh, trái phiếu).

- Không thể nhận tài sản hình thành trong tương lai. Hiện nay, chưa có quy định nào cấm việc nhận cầm cố tài sản hình thành trong tương lai. Nhưng có thể dễ dàng nhận thấy việc nhận những tài sản hình thành trong tương lai theo hình thức cầm cố là không khả thi và không đáp ứng đủ điều kiện pháp luật đặt ra cho biện pháp này do điều kiện có hiệu lực của giao dịch cầm cố là chuyển giao tài sản cầm cố trên thực tế. Như vậy, khi tài sản chưa hình thành thì không có gì để bàn giao. Bên cạnh đó, chỉ khi biện pháp bảo đảm được thực hiện xong, có hiệu lực pháp lý thì ngân hàng mới tiến hành để khách hàng nhận nợ với ngân hàng và giải ngân tiền.

- Hình thức văn bản: được lập thành văn bản cầm cố riêng gọi là hợp đồng cầm cố, không công chứng nhưng có thực hiện việc đăng ký giao dịch bảo đảm để đảm bảo tối đa quyền ưu tiên thanh toán khi khách hàng không thực hiện nghĩa vụ.

- Luôn luôn yêu cầu khách hàng giao nộp bản gốc các giấy tờ sở hữu của tài sản cầm cố (trừ trường hợp đối tượng tài sản là ô tô).

- Việc xử lý tài sản cầm cố có những thuận lợi và dễ dàng hơn so với việc xử lý các tài sản thế chấp do tài sản cầm cố đang được ngân hàng nắm giữ.

* Đối với biện pháp thế chấp tài sản:

- Tài sản nhận thế chấp chủ yếu là Bất động sản và phải được định giá (chủ yếu là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất; ôtô; các dự án hình thành trong tương lai; máy móc có giá trị lớn).

- Hình thức văn bản: được lập thành văn bản cầm cố riêng gọi hợp đồng thế chấp bất động sản; hợp đồng thế chấp tài sản hình thành trong tương lai; hợp đồng thế chấp động sản... Các hợp đồng thế chấp luôn được công chứng và đăng ký giao dịch bảo đảm kể cả trong trường hợp quy định của pháp luật là không bắt buộc.

- Đối với các tài sản hình thành trong tương lai là nhà ở, tài sản gắn liền với đất. GP.Bank nhận thế chấp dưới dạng quyền tài sản, cụ thể là quyền phát sinh từ hợp đồng mua bán hoặc hợp đồng góp vốn để tránh hồ sơ phức tạp khi đăng ký giao dịch bảo đảm.

* Theo thực tế nhận thấy, số lượng giao dịch thế chấp nhiều hơn hẳn so với giao dịch cầm cố do ưu điểm tài sản không phải chuyển giao giữa các bên, tạo điều kiện thuận lợi cho cả bên thế chấp (vẫn được khai thác tài sản thế chấp) và cho cả bên nhận thế chấp (không phát sinh nghĩa vụ nắm giữ tài sản đồng thời việc khai thác tài sản sẽ không tối ưu như bên thế chấp sẽ khai thác nhằm tránh được tình trạng lãng phí trong việc khai thác công dụng, hoa lợi,

lợi tức từ tài sản thế chấp).Tuy nhiên, những khó khăn trong việc xử lý tài sản bảo đảm lại nằm chủ yếu trong các giao dịch thế chấp.Việc không cần bàn giao tài sản là cơ chế thuận lợi khi tiến hành nhận tài sản thì giờ đây khi xử lý, ngân hàng không có cơ chế pháp luật nào bảo đảm cho việc thu giữ tài sản để xử lý. Khách hàng bất hợp tác, cơ quan công quyền không hỗ trợ do chưa có văn bản ghi nhận "trách nhiệm" của họ. Cơ chế pháp luật và "con người" khiến nợ đọng nợ, kìm hãm sự phát triển của GP.Bank nói riêng cũng như nền kinh tế nói chung. Nếu không đưa ra được những giải pháp, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật trong hoạt động ngân hàng đồng thời tăng cường quyền tự chủ cho ngân hàng khi tiến hành xử lý tài sản bảo đảm bảo cơ chế thị trường, cung cầu và đặc biệt thể hiện "pháp quyền" - không thể cứ để tình trạng những thỏa thuận được pháp luật dân sự bảo vệ mà lại không thể thực thi trong thực tế.

Chương 2

THỰC TRẠNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ CẦM CỐ TÀI SẢN, THẾ CHẤP TÀI SẢN CỦA PHÁP LUẬT


2.1. QUY ĐỊNH CẦM CỐ TÀI SẢN VÀ THẾ CHẤP TÀI SẢN – NHỮNG BẤT CẬP VÀ HẠN CHẾ

Liên quan đến quy định về cầm cố tài sản và thế chấp tài sản thì ngoài những quy định khung có tính chất định hướng trong Bộ luật Dân sự, còn có những quy định cụ thể được Ngân hàng nhà nước và các cơ quan khác hướng dẫn. Trong những năm qua, mặc dù ngành ngân hàng đã có những bước phát triển dài nhưng hệ thống văn bản chuyên ngành hỗ trợ quá ít, không kịp thời nên để lại nhiều hậu quả khó giải quyết như hiện nay.

Ba năm trở lại đây, bài báo nào liên quan đến ngân hàng là cũng thấy sự xuất hiện của hai từ "nợ xấu" đi cùng. Nợ xấu được hiểu nôm na là khách hàng không trả nợ và ngân hàng thì không xử lý được tài sản bảo đảm - khoản nợ treo đó mà không có cách nào thu hồi. Theo quy định về cho vay thì không một tổ chức nào có cơ chế chặt chẽ và chuyên nghiệp như các ngân hàng. Thế mà khi rủi ro xảy ra, ngân hàng cũng ngã theo vì cơ chế pháp luật đang chồng chéo hoặc chưa có quy định hướng dẫn liên quan hoặc quan điểm pháp luật của các cơ quan công quyền là khác nhau, Cụ thể như:

2.1.1. Những tồn đọng phát sinh trong giai đoạn 2009 - 2014

a. Tồn tại tại các Ngân hàng nói chung và tại GP.Bank nói riêng: bộ mẫu biểu Hợp đồng thế chấp bất động sản của bên thứ ba/Hợp đồng thế chấp ba bên - Hợp đồng này được áp dụng khi khách hàng vay vốn và bên có tài sản bảo đảm cho nghĩa vụ của khách hàng vay vốn là hai chủ thể khác nhau.

- Các bên tham gia ký kết là: Ngân hàng - Bên thế chấp - Bên vay vốn. Theo quan điểm từ phía các ngân hàng: Việc để thêm Bên vay vốn ký tại Hợp

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 27/11/2023