Cầm cố tài sản và thế chấp tài sản tại Ngân hàng thương mại cổ phần Dầu khí Toàn cầu GP.Bank - 3

- Khi các nghĩa vụ được hoàn tất;

- Nghĩa vụ được bảo đảm bằng cầm cố chấm dứt;

- Việc cầm cố được hủy bỏ hoặc được thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác;

- Tài sản cầm cố đã được xử lý;

- Theo thỏa thuận của các bên. Việc thỏa thuận đồng ý chấm dứt của các bên tham gia giao dịch cầm cố không có ý nghĩa pháp lý nếu pháp luật có quy định bắt buộc nghĩa vụ đó phải có bảo đảm.

* Hậu quả pháp lý khi chấm dứt cầm cố tài sản:

- Trả lại tài sản cầm cố:

Theo quy định tại Điều 71 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP được sửa đổi bổ sung Nghị định số 11/2012/NĐ-CP: trước thời điểm xử lý tài sản bảo đảm mà bên bảo đảm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình đối với bên nhận bảo đảm và thanh toán các chi phí phát sinh do việc chậm thực hiện nghĩa vụ thì có quyền nhận lại tài sản đó.

Đối với các hoa lợi, lợi tức thu được từ tài sản cầm cố thì không phải bất cứ trường hợp nào cũng phải trả cho bên cầm cố, bởi lẽ, các bên có thể thỏa thuận về việc cho bên nhận cầm cố quyền hưởng hoa lợi lợi tức thu được từ tài sản cầm cố trong thời gian cầm cố tài sản. Trong trường hợp này thì bên nhận cầm cố chỉ phải trả lại hoa lợi, lợi tức phát sinh từ thời điểm chấm dứt giao dịch cầm cố cho bên cầm cố. Nếu các bên không có thỏa thuận gì thì bên nhận cầm cố phải trả toàn bộ hoa lợi, lợi tức kể từ thời điểm cầm cố tài sản có hiệu lực. Trong thực tế, không phải bao giờ cũng dễ dàng xác định được nghĩa vụ đã chấm dứt hay chưa và đặc biệt là việc hai bên không thống nhất được về nghĩa vụ đã được hoàn thành hay chưa hoàn thành hoặc đã thực hiện nhưng không đúng thỏa thuận. Trong những trường hợp như thế này thì bên nhận cầm cố có nghĩa vụ phải trả lại tài sản cầm cố hay không? hay có quyền

giữ lại tài sản cầm cố cho đến khi có quyết định của cơ quan có thẩm quyền? Thông thường những trường hợp này, bên nhận cầm cố chưa trả lại tài sản cầm cố cho bên cầm cố. Bên nhận cầm cố thực hiện việc trả lại tài sản khi cơ quan có thẩm quyền quyết định rằng nghĩa vụ của bên cầm cố đã được thực hiện hoặc đã chấm dứt và bên nhận cầm cố sẽ bồi thường thiệt hại xảy ra (nếu có) do việc cố ý giữ lại tài sản cầm cố.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 93 trang tài liệu này.

- Xử lý tài sản cầm cố:

Điều 336 Bộ luật Dân sự quy định:

Cầm cố tài sản và thế chấp tài sản tại Ngân hàng thương mại cổ phần Dầu khí Toàn cầu GP.Bank - 3

Trường hợp đã đến hạn thực hiện nghĩa vụ dân sự mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện nghĩa vụ không đúng thỏa thuận thì tài sản cầm cố được xử lý theo phương thức do các bên đã thỏa thuận hoặc được bán đấu giá theo quy định của pháp luật để thực hiện nghĩa vụ. Bên nhận cầm cố được ưu tiên thanh toán từ số tiền bán tài sản cầm cố [49].

Điều 57 Nghị định số 163/2006/NĐ-CP được sửa đổi bổ sung Nghị định số 11/2012/NĐ-CP:

1. Trong trường hợp bên bảo đảm là bên có nghĩa vụ bị phá sản thì tài sản bảo đảm được xử lý theo quy định của pháp luật về phá sản và Nghị định này để thực hiện nghĩa vụ; trường hợp pháp luật về phá sản có quy định khác với Nghị định này về việc xử lý tài sản bảo đảm thì áp dụng các quy định của pháp luật về phá sản;

2. Trong trường hợp bên bảo đảm là người thứ ba cầm cố, thế chấp tài sản bị phá sản thì tài sản bảo đảm được xử lý như sau: a) Nếu nghĩa vụ được bảo đảm đã đến hạn thực hiện mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì tài sản bảo đảm được xử lý theo quy định tại khoản 1 Điều này để thực hiện nghĩa vụ; b) Nếu nghĩa vụ được bảo đảm chưa đến hạn thực hiện thì tài sản bảo đảm được xử lý theo thỏa thuận của các bên;

trong trường hợp không có thỏa thuận thì tài sản bảo đảm được xử lý theo quy định của pháp luật về phá sản để thực hiện nghĩa vụ khác của bên bảo đảm [28].

+ Theo đó, Bên nhận cầm cố được xử lý tài sản cầm cố trong các trường hợp sau:

Bên cầm cố không thực hiện nghĩa vụ hoặc thực hiện không đúng thỏa thuận;

Bên cầm cố hoặc người thứ ba cầm cố tài sản bị phá sản

+ Và, nguyên tắc chung khi xử lý tài sản cầm cố:

Trong trường hợp tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện một nghĩa vụ thì việc xử lý tài sản đó được thực hiện theo thỏa thuận của các bên; nếu không có thỏa thuận thì tài sản được bán đấu giá theo quy định của pháp luật. Riêng đối với tài sản có thể xác định được giá thị trường thì người xử lý tài sản được bán theo giá thị trường mà không phải thông qua thủ tục bán đấu giá, đồng thời phải thông báo cho bên cầm cố và các bên cùng nhận cầm cố khác (nếu có). Các bên có thể có thỏa thuận xử lý tài sản theo cách thức sau đây: bán tài sản bảo đảm; bên nhận cầm cố nhận chính tài sản để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên cầm cố; phương thức khác do các bên thỏa thuận;

Trong trường hợp tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ thì việc xử lý tài sản đó được thực hiện theo thỏa thuận của bên cầm cố và các bên cùng nhận cầm cố; nếu không có thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được thì tài sản được bán đấu giá theo quy định của pháp luật;

Việc xử lý tài sản cầm cố phải được thực hiện một cách khách quan công khai, minh bạch, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch, cá nhân, tổ chức có liên quan và phù hợp với các quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm;

Người xử lý tài sản là bên nhận cầm cố hoặc bên thứ ba được bên nhận cầm cố ủy quyền, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác;

Thời hạn xử lý tài sản do các bên thỏa thuận, nếu không có thỏa thuận thì người xử lý tài sản được quyền quyết định nhưng không được trước 07 ngày đối với động sản hoặc 15 ngày đối với bất động sản kể từ ngày có thông báo về việc xử lý tài sản trừ trường hợp tài sản có nguy cơ bị mất giá trị hoặc giảm sút giá trị, quyền đòi nợ, giấy tờ có giá, thẻ thiết kiệm, vận đơn thì người xử lý tài sản có quyền xử lý ngay.

+ Riêng đối với trường hợp xử lý tài sản cầm cố trong trường hợp có nhiều tài sản:

Điều 337 Bộ luật Dân sự quy định:

Trong trường hợp tài sản được dùng để cầm cố có nhiều vật thì bên nhận cầm cố được chọn tài sản cụ thể để xử lý, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Bên nhận cầm cố chỉ được xử lý số tài sản cần thiết tương ứng với giá trị của nghĩa vụ được bảo đảm; nếu xử lý quá số tài sản cần thiết và gây ra thiệt hại cho bên cầm cố thì phải bồi thường thiệt hại cho bên cầm cố [49].

Như vậy, khi tài sản được dùng để cầm cố có nhiều vật thì bên nhận cầm cố được quyền lựa chọn tài sản cụ thể để xử lý, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận là phải xử lý tài sản nào trước, xử lý tài sản nào sau hoặc các bên có thỏa thuận mỗi một loại tài sản được bảo đảm để thực hiện từng phần nghĩa vụ thì phần nghĩa vụ nào chưa thực hiện sẽ xử lý tài sản tương ứng được dùng để bảo đảm cho phần nghĩa vụ dân sự đó. Một điểm lưu ý là bên nhận cầm cố chỉ được xử lý tài sản cần thiết tương ứng với giá trị của nghĩa vụ được bảo đảm; nếu xử lý quá số tài sản cần thiết và gây ra thiệt hại cho bên cầm cố thì bên nhận cầm cố phải bồi thường thiệt hại cho bên cầm cố.

+ Sau khi xử lý tài sản cầm cố, việc thanh toán tiền bán tài sản cầm cố

được thực hiện theo nguyên tắc: tài sản được dùng để bảo đảm cho nghĩa vụ nào thì khi bán tài sản đó, nghĩa vụ dân sự tương ứng đó sẽ được ưu tiên thanh toán trước, các nghĩa vụ dân sự khác sẽ được thanh toán sau theo cách thức thanh toán nghĩa vụ dân sự không được bảo đảm.

Thứ tự thanh toán nghĩa vụ dân sự từ tiền bán tài sản bảo đảm được xác định như sau:

Thanh toán chi phí tự bảo quản, chi phí bán tài sản và các chi phí cần thiết khác liên quan đến việc xử lý tài sản cầm cố;

Thanh toán nghĩa vụ dân sự được bảo đảm bằng tài sản cầm cố. Nghĩa vụ dân sự là khoản vay thì thanh toán cho bên nhận cầm theo thứ tự nợ gốc, lãi, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại nếu có.

Nếu tiền bán còn thừa thì phải trả lại cho bên cầm cố; nếu tiền bán còn thiếu thì bên cầm cố phải trả tiếp phần còn thiếu đó. Tuy nhiên, số phần nghĩa vụ dân sự còn thiếu chưa được thanh toán từ tài sản cầm cố sẽ trở thành nghĩa vụ dân sự không có bảo đảm vì tài sản cầm cố đã hết.

1.2. THẾ CHẤP TÀI SẢN

1.2.1. Khái niệm thế chấp tài sản

* Thế chấp tài sản là việc bên bảo đảm dùng tài sản thuộc sở hữu của mình (tài sản này có thể là tài sản hiện hữu hoặc tài sản hình thành trong tương lai) để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ đối với bên nhận bảo đảm mà không chuyển giao tài sản đó cho bên nhận bảo đảm giữ.

* Động sản hay bất động sản đều có thể trở thành đối tượng được nhận là tài sản thế chấp. Tuy nhiên, Điểm khác biệt rõ rệt nhất giữa biện pháp cầm cố tài sản và biện pháp thế chấp tài sản là: "không chuyển giao tài sản". Nội dung này được cụ thể như sau:

- Quan hệ vật chính - vật phụ trong quan hệ thế chấp tài sản:

+ Nếu bên thế chấp thế chấp toàn bộ bất động sản hoặc động sản có vật

phụ thì vật phụ của bất động sản hoặc động sản đó đương nhiên phải thuộc tài sản thế chấp, các bên không thể có thỏa thuận khác;

+ Nếu chỉ thế chấp một phần bất động sản hoặc động sản có vật phụ thì nếu bên thế chấp không muốn vật phụ thuộc tài sản thế chấp thì phải thỏa thuận rõ với với bên nhận thế chấp về việc xác định vật phụ của bất động sản, động sản đó không thuộc tài sản thế chấp. Trường hợp không có thỏa thuận thì vật phụ đương nhiên thuộc tài sản thế chấp đó.

- Thế chấp tài sản hình thành trong tương lai:

Khoản 2 Điều 4 Nghị định 163/2006/NĐ-CP được sửa đổi bổ sung Nghị định số 11/2012/NĐ-CP:

Tài sản hình thành trong tương lai gồm: a) Tài sản được hình thành từ vốn vay; b) Tài sản đang trong giai đoạn hình thành hoặc đang được tạo lập hợp pháp tại thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm; c) Tài sản đã hình thành và thuộc đối tượng phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng sau thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm thì tài sản đó mới được đăng ký theo quy định của pháp luật. Tài sản hình thành trong tương lai không bao gồm quyền sử dụng đất [28].

Như vậy, tài sản hình thành trong tương lai được hiểu chung là những tài sản hình thành từ vốn vay; tài sản đang trong giai đoạn hình thành hoặc đang được tạo lập hợp pháp tại thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm; tài sản đã hình thành và thuộc đối tượng phải đăng ký theo quy định của pháp luật. Tài sản hình thành trong tương lai không bao gồm quyền sử dụng đất.

- Thế chấp tài sản đang cho thuê

Điều 345 Bộ luật Dân sự quy định: "Tài sản đang cho thuê cũng có thể được dùng để thế chấp. Hoa lợi, lợi tức thu được từ việc cho thuê tài sản thuộc tài sản thế chấp, nếu có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định" [49].

Theo đó, việc thế chấp tài sản đang cho thuê được thực hiện như sau:

+ Bên thế chấp chỉ cần thông báo về việc cho thuê tài sản cho bên nhận thế chấp biết.

+ Đối với trường hợp tài sản đã/đang được thuê (hợp đồng thuê được ký kết trước khi ký hợp đồng thế chấp).

Điều 24 Nghị định 163/2006/NĐ-CP được sửa đổi bổ sung Nghị định số 11/2012/NĐ-CP:

Trong trường hợp thế chấp tài sản đang cho thuê thì bên thế chấp thông báo về việc cho thuê tài sản cho bên nhận thế chấp; nếu tài sản đó bị xử lý để thực hiện nghĩa vụ thì bên thuê được tiếp tục thuê cho đến khi hết thời hạn thuê theo hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác [28].

Trong trường hợp này, ngân hàng sẽ biết được việc tài sản đã cho thuê và chủ thể đang thuê là ai? Từ đó, có những biện pháp quản lý và có những thỏa thuận giữa các bên. Theo đó, việc xử lý tài sản thế chấp chỉ được thực hiện sau khi kết thúc thời hạn thuê, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác; và bên thế chấp phải bồi thường thiệt hại xảy ra (nếu có) cho bên nhận thế chấp do việc không thể xử lý tài sản thế chấp đúng hạn. Bên thuê được tiếp tục thuê cho đến khi hết thời hạn thuê theo Hợp đồng, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác. Hoa lợi lợi tức thu được từ việc cho thuê tài sản không đương nhiên thuộc về tài sản thế chấp, trừ trường hợp các bên trong Hợp đồng thế chấp có thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định khác. Vì giao dịch cho thuê được xác lập trước thời điểm giải ngân tiền vay nên việc ngân hàng có yêu cầu và thỏa thuận với các bên liên quan đến lợi ích của ngân hàng cũng dễ đạt được thỏa thuận trên cơ sở sự ủng hộ tuyệt đối của chủ tài sản.

+ Còn đối với trường hợp tài sản thế chấp được cho thuê sau khi tài sản đã được thế chấp. Vì pháp luật quy định chủ tài sản chỉ cần thông báo cho ngân hàng biết về việc cho thuê mà không cần sự đồng ý của ngân hàng. Theo

đó, ở giai đoạn này, phía ngân hàng rất khó để ký thỏa thuận liên quan đến việc cho thuê tài sản thế chấp và phương án xử lý đối với tài sản khi ngân hàng tiến hành xử lý tài sản bảo đảm. Quyền lợi ngân hàng bị hạn chế hơn và quyền lợi của bên thuê tài sản được pháp luật ưu tiên bảo vệ hơn.

- Thế chấp tài sản được bảo hiểm: Điều 346 Bộ luật Dân sự:

1. Trong trường hợp tài sản thế chấp được bảo hiểm thì khoản tiền bảo hiểm cũng thuộc tài sản thế chấp;

2. Bên nhận thế chấp phải thông báo cho tổ chức bảo hiểm biết về việc tài sản bảo hiểm đang được dùng để thế chấp. Tổ chức bảo hiểm chi trả số tiền bảo hiểm trực tiếp cho bên nhận thế chấp khi xảy ra sự kiện bảo hiểm. Trường hợp bên nhận thế chấp không thông báo cho tổ chức bảo hiểm biết về việc tài sản bảo hiểm đang được dùng để thế chấp thì tổ chức bảo hiểm chi trả bảo hiểm theo hợp đồng bảo hiểm và bên thế chấp có nghĩa vụ thanh toán với bên nhận thế chấp [49].

+ Đối với trường hợp tài sản bảo đảm được đền bù bởi một bên thứ ba thì ngân hàng cần có những thỏa thuận chặt chẽ về việc có sự kiện “bồi thường” bởi trên tinh thần quy định tại Điều 346 Bộ luật Dân sự, việc bồi thường tiền bảo hiểm đối với những tài sản thế chấp được bảo hiểm được thực hiện theo nguyên tắc sau:

Nếu thế chấp tài sản có bảo hiểm thì trong trường hợp có sự rủi ro đối với tài sản thế chấp, khoản tiền bảo hiểm đương nhiên trở thành tài sản thế chấp. Chế định này đương nhiên được áp dụng không phụ thuộc vào việc các bên có thỏa thuận hay không;

Khi nhận thế chấp tài sản, bên nhận thế chấp phải tìm hiểu kỹ về tài sản, nếu tài sản đó đang được bảo hiểm thì khi đồng ý nhận

Xem tất cả 93 trang.

Ngày đăng: 27/11/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí