a) Sau 12 tháng, kể từ ngày giấy phép có hiệu lực, tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản chưa xây dựng cơ bản mỏ, trừ trường hợp bất khả kháng;
b) Sau 12 tháng, kể từ ngày dự kiến bắt đầu khai thác, tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản chưa tiến hành khai thác, trừ trường hợp bất khả kháng;
c) Tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản vi phạm một trong các nghĩa vụ quy định tại các điểm a, b, c, d, đ, e và g khoản 2 Điều 55 của Luật này mà không khắc phục trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền về khoáng sản có thông báo bằng văn bản;
d) Khu vực được phép khai thác khoáng sản bị công bố là khu vực cấm hoạt động khoáng sản, khu vực tạm thời cấm hoạt động khoáng sản. [34, khoản 1, Điều 58]
Thực tế chủ sở hữu tài sản trong trường hợp này vẫn có thể khai thác, sử dụng tài sản. Nếu các bên thoả thuận việc các khoản lợi tức từ việc khai thác khoáng sản cũng là tài sản bảo đảm thì về nguyên tắc vẫn phải tiến hành thủ tục chuyển giao tài sản cầm cố theo quy định.
Ngay cả trong trường hợp bên cầm cố không khai thác, sử dụng tài sản cầm cố thì thực tế lợi ích của bên nhận cầm cố cũng sẽ bị hạn chế nhiều trong trường hợp xử lý tài sản cầm cố nêu sau đây.
- Với quyền sở hữu công nghiệp:
Tương tự như với quyền khai thác khoáng sản, trong trường hợp cầm cố quyền sở hữu công nghiệp, các bên sẽ chuyển giao cho nhau giấy tờ chứng minh quyền sở hữu của mình. Nhưng vấn đề đặt ra cũng vẫn là việc sử dụng, khai thác quyền tài sản này trên thực tế. Nếu đối tượng sở hữu công nghiệp đã được chủ sở hữu khai thác sử dụng trên thực tế như nhãn hiệu,... thì dù có cầm cố, bên cầm cố cũng khó có cơ sở để quản lý thực tế việc sử dụng tài sản.
- Với quyền đòi nợ:
Như đã nêu tại phần đầu của Luận văn này về tài sản cầm cố, quyền đòi nợ đang được mặc định áp dụng cho biện pháp thế chấp. Nhưng xét dưới góc độ đặc điểm quyền tài sản thì quyền đòi nợ cũng tương đồng với các dạng quyền tài sản khác, bởi vậy, ở đây, nếu xác định quyền đòi nợ không thể được nhận cầm cố thì có phần khiên cưỡng và thiếu thuyết phục.
Có thể bạn quan tâm!
- Cầm Cố Tài Sản Trong Hoạt Động Của Tổ Chức Tín Dụng
- Hiệu Lực Của Giao Dịch Cầm Cố Giấy Tờ Có Giá
- Bản Chất Pháp Lý Cầm Cố Vận Đơn
- Bản Chất Pháp Lý Của Giao Dịch Cầm Cố Chứng Khoán
- Rủi Ro Cầm Cố Thẻ Tiết Kiệm Của Ngân Hàng Khác
- Rủi Ro Xác Định Hiệu Lực Khi Cầm Cố Giấy Tờ Có Giá
Xem toàn bộ 112 trang tài liệu này.
Trong phạm vi Luận văn này, tác giả phân tích các vấn đề pháp lý về quyền đòi nợ dưới quan điểm vẫn có thể nhận cầm cố quyền đòi nợ.
Bản chất của việc sử dụng quyền đòi nợ làm tài sản bảo đảm là việc bên bảo đảm cam kết việc sử dụng phần giá trị vật chất mà một bên thứ ba có nghĩa vụ thanh toán cho mình, đồng thời bên nhận bảo đảm đồng ý và có quyền thụ hưởng phần giá trị vật chất này theo nội dung đã thoả thuận với bên bảo đảm.
Cách thức vận hành giao dịch giữa các bên trong trường hợp này cũng khá giống với giao dịch bảo đảm bằng bảo lãnh. Tức là đều xuất hiện một bên thứ ba có nghĩa vụ thanh toán một khoản tiền (hoặc tài sản tương đương) cho bên nhận bảo đảm và khả năng thu hồi nợ của bên nhận bảo đảm đều phụ thuộc vào khả năng thanh toán các nghĩa vụ của bên thứ ba này.
Điểm khác biệt có chăng là trường hợp bảo đảm bằng tài sản là quyền đòi nợ thì nghĩa vụ thanh toán của bên thứ ba sẽ giới hạn trong phạm vi nghĩa vụ đã phát sinh theo giao dịch trước đó với bên cầm cố; trong khi trường hợp bảo đảm bằng bảo lãnh, bên bảo lãnh cam kết thực hiện nghĩa vụ thay cho bên được bảo lãnh nếu bên được bảo lãnh không thực hiện được nghĩa vụ khi đến hạn. Bên cạnh đó, thủ tục pháp lý tiến hành hai loại giao dịch này cũng khác nhau, nhất là giai đoạn xử lý tài sản bảo đảm.
- Với các quyền tài sản khác:
Khoản 1, Điều 322 về “Quyền tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự”, Bộ luật Dân sự năm 2005 ghi nhận thêm các dạng quyền tài sản khác có thể dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự gồm:
+ Quyền tài sản phát sinh từ quyền tác giả;
+ Quyền đối với giống cây trồng;
+ Quyền được nhận số tiền bảo hiểm đối với vật bảo đảm;
+ Quyền tài sản đối với phần vốn góp trong doanh nghiệp;
+ Quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng;
+ Các quyền tài sản khác thuộc sở hữu của bên bảo đảm.
Các quyền tài sản này về bản chất cũng đều tương tự như quyền tài sản khác, bên cầm cố sẽ chuyển giao các giấy tờ, tài liệu chứng minh quyền tài sản thuộc sở hữu của mình cho bên nhận cầm cố.
2.2.4.2. Hiệu lực giao dịch cầm cố quyền tài sản:
Do pháp luật không có quy định khác về thời điểm có hiệu lực của giao dịch cầm cố quyền tài sản, nên theo quy định chung tại Bộ luật Dân sự năm 2005 và Nghị định số 163/2006/NĐ-CP về Giao dịch bảo đảm, giao dịch cầm cố quyền tài sản có hiệu lực từ thời điểm các bên bàn giao cho nhau giấy tờ chứng minh quyền sở hữu tài sản.
Nhưng do thực tế các bên chỉ có thể chuyển giao cho nhau giấy tờ chứng mình về quyền tài sản nên trong các thoả thuận của mình, các bên cần xác định thống nhất thời điểm chuyển giao tài sản chính là thời điểm chuyển giao những giấy tờ này.
2.2.4.3. Xử lý tài sản cầm cố:
Các trường hợp xử lý tài sản cầm cố là quyền tài sản cũng tương tự như những tài sản khác; căn cứ trên quy định của pháp luật, các bên có thể thoả thuận cụ thể trong hợp đồng bảo đảm các trường hợp xử lý tài sản cầm cố.
Về phương thức xử lý tài sản cầm cố, theo quy định tại Nghị định số 163/2006/NĐ-CP về Giao dịch bảo đảm, bên nhận bảo đảm có các phương thức xử lý tài sản bảo đảm như sau:
- Bán tài sản bảo đảm.
- Bên nhận bảo đảm nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm.
- Bên nhận bảo đảm nhận các khoản tiền hoặc tài sản khác từ người thứ ba trong trường hợp thế chấp quyền đòi nợ.
- Phương thức khác do các bên thoả thuận.
Với tài sản cầm cố là quyền tài sản, việc xử lý tài sản là khá đặc thù. Khả năng thực hiện của mỗi phương thức xử lý trên thực tế phụ thuộc vào tính phù hợp của cơ sở pháp lý áp dụng cho từng phương thức xử lý. Như với phương thức bán, chuyển nhượng tài sản bảo đảm, với tài sản là quyền tài sản, về nguyên tắc pháp lý, các bên hoàn toàn có thể bán, chuyển nhượng quyền tài sản dựa trên hợp đồng chuyển nhượng (hoặc tên gọi, hình thức khác theo quy định của pháp luật, thoả thuận của các bên), ví dụ như: Hợp đồng chuyển nhượng quyền sở hữu công nghiệp, Hợp đồng chuyển nhượng quyền quyền khai thác khoáng sản,… Với phương thức này, tổ chức tín dụng nhận cầm cố sẽ thu về khoản tiền, giá trị vật chất để khấu trừ nghĩa vụ của bên có nghĩa vụ được bảo đảm.
Với phương thức nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ, trường hợp tài sản cầm cố là quyền đòi nợ, tổ chức tín dụng có thể thông qua một thoả thuận dân sự để thay đổi bên có nghĩa vụ trả nợ đối với tổ chức tín dụng. Trường hợp tài sản cầm cố là quyền khai thác khoáng sản, quyền sở hữu công nghiệp, việc tổ chức tín dụng nhận tài sản cầm cố sẽ gặp một số hạn chế về cơ chế pháp lý cũng như về cách thức khai thác thực tế.
Ví dụ như với quyền khai thác khoáng sản, hiện tại Luật Khoáng sản năm 2010 chỉ ghi nhận quyền chuyển nhượng quyền khai thác khoáng sản của tổ chức, cá nhân khai thác khoáng sản. Theo logic này, trường hợp nhận tài sản cầm cố, bên nhận cầm cố cần thực hiện thông qua hợp đồng, thoả thuận chuyển nhượng quyền khai thác khoáng sản. Nhưng với đặc thù hoạt động của tổ chức tín dụng, do không có chức năng, kinh doanh trong lĩnh vực khoáng sản nên về nguyên tắc, tổ chức tín dụng không thể tiếp nhận và sử dụng quyền khai thác khoáng sản này trên thực tế.
Trường hợp tài sản cầm cố là quyền sở hữu công nghiệp, hình thức pháp lý để nhận tài sản cầm cố vẫn cần phải dựa trên hợp đồng chuyển nhượng quyền
sở hữu công nghiệp, nhằm bảo đảm tính phù hợp với các quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ. Vấn đề hạn chế sẽ nằm ở phương thức khai thác tài sản thực tế.
Với tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ, pháp luật quy định riêng một phương thức xử lý tài sản là bên nhận bảo đảm nhận các khoản tiền hoặc tài sản khác từ người thứ ba. Xét một cách cặn kẽ, trong trường hợp tài sản bảo đảm là quyền đòi nợ, dù có áp dụng phương thức xử lý tài sản nào thì cũng sẽ thay đổi chủ thể (hoặc thêm chủ thể trong trường hợp quyền đòi nợ có giá trị lớn hơn giá trị nghĩa vụ được bảo đảm) được hưởng quyền lợi vật chất từ bên có nghĩa vụ trả nợ cho bên bảo đảm sang tổ chức tín dụng nhận bảo đảm. Và hình thức giao dịch được áp dụng về bản chất vẫn là việc chuyển giao quyền yêu cầu theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005.
2.2.5. Cầm cố tàu bay
2.2.5.1. Bản chất giao dịch cầm cố tàu bay
Khoản 1, Điều 13 về “Đăng ký quốc tịch tàu bay”, Luật Hàng không dân dụng Việt Nam năm 2006 quy định:
Tàu bay là thiết bị được nâng giữ trong khí quyển nhờ tác động tương hỗ với không khí, bao gồm máy bay, trực thăng, tàu lượn, khí cầu và các thiết bị bay khác, trừ thiết bị được nâng giữ trong khí quyển nhờ tác động tương hỗ với không khí phản lại từ bề mặt trái đất. [32, khoản 1, Điều 13]
Là một dạng động hữu hình, việc nhận cầm cố tàu bay tương tự như việc nhận cầm cố động sản hữu hình khác.
2.2.5.2. Hiệu lực giao dịch cầm cố tàu bay
Giao dịch cầm cố tàu bay có hiệu lực từ thời điểm tàu bay được chuyển giao từ bên cầm cố sang bên nhận cầm cố.
Khác với các động sản khác, việc cầm cố tàu bay bắt buộc phải tiến hành thủ tục đăng ký giao dịch bảo đảm theo quy định.
Thời điểm đăng ký giao dịch bảo đảm đối với giao dịch cầm cố tàu bay là thời điểm việc cầm cố được ghi nhận vào Sổ đăng bạ tàu bay, theo quy định của Nghị định số 83/2010/NĐ-CP về Đăng ký giao dịch bảo đảm.
2.2.5.3. Xử lý tài sản cầm cố
Việc xử lý tài sản cầm cố là tàu bay cũng tuân theo những quy định chung về xử lý tài sản cầm cố như đã nêu.
2.2.6. Cầm cố động sản khác
Động sản đa dạng và có một tỷ lệ lớn hơn nhiều so với bất động sản (không so sánh về tỷ trọng giá trị tài sản bảo đảm trong toàn bộ hệ thống tài sản bảo đảm của một tổ chức tín dụng).
Như đã nêu ở phía trên, có thể phân loại tài sản nói chung và động sản nói riêng thành nhiều nhóm, dựa trên nhiều cơ sở.
Tương tự như trường hợp của động sản là thẻ tiết kiệm, có một số dạng tài sản là động sản mà nếu nhận cầm cố, giá trị lợi ích vật chất thực tế mà bên nhận cầm cố hướng tới không phải nằm ở thực thể nhận chuyển giao mà sẽ tồn tại ở một trạng thái khác; ví dụ như trường hợp của động sản là sim điện thoai và thẻ nạp điện thoại.
Thực tế, đã có thời kỳ, có những tổ chức tín dụng đã ban hành những quy chế riêng về việc triển khai sản phẩm cấp tín dụng nhận cầm cố sim-thẻ điện thoại. Có thể kể tới Quy định số QĐ.TD.011 ngày 16-02-2011 của Tổng Giám đốc Ngân hàng TMCP Hàng Hải Việt Nam (Maritime Bank) về cho vay và cấp bảo lãnh kinh doanh sim thẻ đối với các đại lý cấp 1, cấp 2 của các hàng viễn thông tại Việt Nam.
Điều 10 về “Biện pháp bảo đảm tiền vay”, Quy định số QĐ.TD.011 này quy định các biện pháp bảo đảm tiền vay áp dụng cho sản phầm tín dụng này gồm:
- Cầm cố sim thẻ hình thành trong tương lai;
- Cầm cố sim thẻ hiện hữu;
- Cầm cố, thế chấp tài sản bảo đảm khác: Tài sản bảo đảm là tiền gửi tại các tổ chức tín dụng, bất động sản theo quy định của Maritime Bank.
Phân tích giao dịch cầm cố sim-thẻ điện thoại này có thể nhận thấy, giá trị vật chất tự thân của sim-thẻ điện thoại không phải là lợi ích vật chất mà tổ chức
tín dụng hướng tới; mà tổ chức tín dụng hướng tới quyền thụ hưởng phần giá trị vật chất (hay chính là dòng tiền) bên cầm cố thu được từ việc tiêu thụ sản phẩm.
Tương tự như vậy, thực tế cũng đã có trường hợp, tổ chức tín dụng nhận cầm cố tài sản là thẻ game (tức là loại thẻ mà khi người chơi nạp mã thẻ thì tài khoản của người đó sẽ nhận được một lượng giá trị ảo tương ứng theo quy đổi của nhà phát hành game và chỉ được sử dụng trong trò chơi đó).
Do tính chất đặc thù mà thực tế việc xử lý tài sản cầm cố dạng này là không hề dễ dàng, ẩn chứa nhiều rủi ro.
2.3. Cầm cố tài sản trong hoạt động của công ty chứng khoán
2.3.1. Cầm cố tiền gửi
2.3.1.1. Bản chất giao dịch cầm cố tiền gửi
Như đã trình bày tại Chương I, công ty chứng khoán sử dụng biện pháp bảo đảm với tư cách bên nhận bảo đảm trong giao dịch ký quỹ chứng khoán.
Hiện tại, giao dịch ký quỹ của các công ty chứng khoán được hướng dẫn áp dụng tại Quy chế hướng dẫn giao dịch ký quỹ chứng khoán ban hành kèm theo Quyết định số 637/QĐ-UBCK ngày 30-8-2011 của Chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (Quyết định số 637/QĐ-UBCK).
Tại Quy chế hướng dẫn giao dịch ký quỹ chứng khoán ban hành kèm theo Quyết định số 637/QĐ-UBCK.
Trong giao dịch ký quỹ chứng khoán, công ty chứng khoán cho khách hàng vay tiền để mua chứng khoán, căn cứ trên tổng giá trị tài sản trong tài khoản giao dịch chứng khoán của Khách hàng (tiền và chứng khoán). Công ty chứng khoán quản lý tài khoản của khách hàng căn cứ vào tỷ lệ ký quỹ mỗi tài khoản. Theo quy định tại khoản 7, Điều 2 về “Giải thích từ ngữ”, Quy chế hướng dẫn giao dịch ký quỹ chứng khoán ban hành kèm theo Quyết định số 637/QĐ-UBCK, tỷ lệ ký quỹ là “tỷ lệ giữa tài sản thực có so với tổng tài sản trên tài khoản giao dịch ký quỹ tính theo giá thị trường”. [39, khoản 7, Điều 2]
Mỗi công ty chứng khoán có cách thức quản lý khác nhau, thông thường, công ty chứng khoán chia thành các mốc tỷ lệ chính như sau: tỷ lệ ký quỹ duy trì
là mức tỷ lệ mà ở đó khách hàng vẫn đủ điều kiện giao dịch ký quỹ chứng khoán; tỷ lệ ký quỹ bổ sung là tỷ lệ mà ở đó công ty chứng khoán yêu cầu khách hàng bổ sung tài sản (tiền hoặc chứng khoán) để đưa tỷ lệ ký quỹ về mức duy trì và tỷ lệ ký quỹ xử lý là tỷ lệ mà ở đó, công ty chứng khoán sẽ thực hiện các biện pháp xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ.
Biện pháp bảo đảm được áp dụng đối với tài sản bảo đảm là tiền gửi và chứng khoán trên tài khoản của Khách hàng được xác định tại Quy chế hướng dẫn giao dịch ký quỹ chứng khoán ban hành kèm theo Quyết định số 637/QĐ- UBCK là thế chấp.
Xét về tính phù hợp logic pháp luật thực định thì việc xác định giao dịch bảo đảm là giao dịch thế chấp tài sản như tại Quy chế hướng dẫn giao dịch ký quỹ chứng khoán ban hành kèm theo Quyết định số 637/QĐ-UBCK là không hoàn toàn hợp lý. Cần xác định biện pháp bảo đảm áp dụng trong trường hợp này là cầm cố tài sản với lý do như sau:
- Thực tế đã có sự chuyển giao tài sản bảo đảm là tiền gửi từ bên bảo đảm là Khách hàng sang bên nhận bảo đảm là công ty chứng khoán.
- Thực tế triển khai nghiệp vụ giao dịch ký quỹ chứng khoán nói riêng cũng như giao dịch chứng khoán nói chung, nhà đầu tư - khách hàng cần phải mở tài khoản giao dịch (với giao dịch ký quỹ cần phải mở tài khoản ký quỹ) tại công ty chứng khoán trên cơ sở hợp đồng mở tài khoản giao dịch ký quỹ (hoặc dưới tên gọi khác tùy thuộc vào từng công ty chứng khoán). Để có thể mua chứng khoán, nhà đầu tư buộc phải có tiền trong tài khoản. Về mặt quản lý số liệu, tài khoản tiền của nhà đầu tư sẽ được tách riêng với tài khoản chứng khoán. Tài khoản tiền của nhà đầu tư được công ty chứng khoán cấp mã số để theo dõi riêng, nhưng về hình thức, tài khoản tiền của nhà đầu tư vẫn nằm trong tài khoản tổng của công ty chứng khoán mở tại một ngân hàng thương mại. Về danh nghĩa, công ty chứng khoán vẫn là chủ sở hữu tiền gửi trong tài khoản tổng, trong các giao dịch rút, chuyển tiền của nhà đầu tư, công ty chứng khoán vẫn là