khát, cồn cào và mãnh liệt “Có nỗi nhớ con còn hơn khát nước” (Nhớ con ngoài vùng phủ sóng), chỉ mong nhanh chóng được trở về bên con sau những chuyến đi và viết:
Nhưng về nhà rồi Gọi con trai ơi
để mẹ và con nhìn nhau không chớp mắt
(Chớp mắt)
Và vô tình khi thấy con trẻ nhớ cha khi ngồi chơi cờ một mình:
Chủ nhật này
Con vẫn ngồi chơi cờ một mình Nước xe đi
Chiếu tướng
Không có bố ngồi trước
Không có bố quét lá vàng trong vườn
Có thể bạn quan tâm!
- Cái Tôi – Người Tình Đam Mê, Mãnh Liệt
- Cái tôi trữ tình trong thơ Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, hoàng Việt Hằng - 9
- Cái Tôi – Cô Đơn, Đau Khổ Của Một Kiếp Thi Nhân – Đàn Bà
- Cái Tôi Trữ Tình Trong Thơ Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, Hoàng Việt Hằng Nhìn Từ Phương Diện Nghệ Thuật
- Cái tôi trữ tình trong thơ Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, hoàng Việt Hằng - 13
- Cái tôi trữ tình trong thơ Dư Thị Hoàn, Đoàn Thị Lam Luyến, hoàng Việt Hằng - 14
Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.
(Con chơi cờ một mình)
Có nỗi mất mát nào lớn hơn thế không? Con mất cha, vợ mất chồng, cô đơn và lạc lõng, nỗi đau như xé lòng. Hình ảnh con trẻ ngây thơ chưa hiểu hết những mất mát mà mình trải qua, vẫn cứ chờ, cứ tin là sự ra đi đó chỉ là tạm thời. Và những câu thơ chị viết thì hình ảnh con trai luôn chan chứa tình yêu thương và là ngọn nguồn của sự sống:
Con như cây
Mẹ tựa khi giông bão
(Viết cho con)
Đó là cả một quá trình tự cố gắng và vươn lên của Hoàng Việt Hằng:
Đi viết nuôi con
như người mẹ đi nương rắc ngô và rắc lúa
Ta cày trên đồng chữ Đợi ngày con
như cây lúa trổ đòng…
(Dốc Cun)
Đó là nơi nương tựa duy nhất sau sự ra đi của nhà văn Triệu Bôn, chị viết, chị nuôi con trưởng thành theo đúng nguyện vọng của anh. Có những lúc chị mệt mỏi trên hành trình đi và viết, chị đã phải ước:
Tôi cầu tôi bớt đa đoan
Barie có chắn ngang đường đời Chỉ xin một bình yên thôi
Để đi để viết để đời câu thơ
(Chùa Một Mái)
Dù có mạnh mẽ, quyết đoán, cứng rắn đến đâu thì Hoàng Việt Hằng cũng chỉ là một người đàn bà, cũng cần lắm những lời động viên, một bờ vai để dựa dẫm hay đơn giản chỉ là một người để bày tỏ nỗi lòng. Những lúc như thế chị chỉ biết thốt lên đầy xót xa:
Những phận đàn bà trời ơi khổ quá… chưa đi khỏi nhà
Những câu hỏi
nỗi xót xa
Góc nhà những củ khoai bật mầm Em đã vịn vào xanh non
Tĩnh lặng nhìn sự sống
(Ước)
Chất riêng thơ Hoàng Việt Hằng dồn hết vào những bài thơ dành cho thân phận mình, cho chồng con, nhất là khi viết về người chồng đã mất. Tình cảm vợ chồng âm dương cách trở là một tình cảm mạnh mẽ, đau đớn thương tâm. Muôn thuở vẫn thế. Và là nguồn đề tài đắc địa của thơ.Nhiều tác phẩm của các nữ sĩ xưa nay được người đời nhắc đến ghi rõ dấu ấn cá nhân và nỗi niềm riêng tư cảm động. Gần với chúng ta, nữ sĩ Tương Phố khóc chồng mỗi độ thu về, tiếng thơ của bà thương nhớ, não nề. Tiếng thơ của nhà thơ nữ hôm nay buồn da diết và cố gắng khuây khỏa. Dù sao cũng còn nhiều việc phải làm: nghề nghiệp, nuôi con ăn học, công tác xã hội…nhưng không vì thế mà nó bớt đi sự thương nhớ:
Em đã gói kỷ niệm
Gói giọt sương trên lá sen
Gói cả anh và tình yêu hai ta xưa
Nhưng gói mãi đến mùa xuân phải mở Cho nỗi buồn không héo khô
(Dù em có dụi mắt)
Vậy là cố quên nhưng không thể quên và nỗi buồn với nhà thơ lại là tài sản quý giá. Có thể nỗi buồn làm cho con người dễ nhận ra bản thể mình, dễ cảm thông chia sẻ với mọi cảnh ngộ và nhạy cảm với những biến thái của cuộc đời. Những câu thơ mà chị vin vào đứng dậy “Buông anh em đọc ban mai/ Tung vần thơ với vắt vai chuyện đời” (Một mình khâu những lặng im). Và cũng qua thơ ta biết được chị từng “Bước qua dèm pha, thị phi/ Để đến với anh”, biết chị “Cúi mặt thấy trăng đẫm nước mắt” rồi “Đi mãi trên cây cầu người đời gọi là hạnh phúc” (Cánh cửa) – những câu thơ nặng trĩu nỗi người.
Ngoài việc thể hiện sự cô đơn, đau khổ của kiếp thi nhân – đàn bà Hoàng Việt Hằng từ số phận của mình, nỗi đau của mình, hướng tới cảm thông với những số phận cô đơn, lam lũ khác. Những người ấy bao giờ cũng là con người bé nhỏ khiêm nhường. Họ thường khuất lấp trong những ngõ nghèo thành phố, trong góc khuất tam quan một ngôi chùa, trong một túp lều liêu xiêu vách núi, một túp lều chăn vịt ngoài đồng, một khe sâu ven rừng… Trong tấm lòng và ngòi bút đồng cảm của Hoàng Việt Hằng, họ hiện ra rưng rưng như một niềm day dứt, như một đối sánh để mọi người suy ngẫm về phận người, về đau khổ, hạnh phúc.
Đó là những phận người làm những việc bình thường, chẳng mấy quan trọng, vẻ vang nhưng cần thiết trong cuộc sống. Đó là ông già làm nghề liệm xác:
Có một ông già làm nghề liệm xác Ông lặng lẽ nghe nhiều tiếng khóc
Khi vuốt mắt cho người già ở tuổi hai mươi Khi bế ẵm đứa trẻ chỉ vài ba tháng tuổi
Những ông già gặp chẳng trối trăng gì Ông sống một mình với chai rượu trắng
(Day dứt)
Một loạt người trong số họ, những người già ven biển một đời làm lụng không biết nghỉ ngơi:
Người già cả vẫn còn dọn dẹp
Bàn tay gầy phơi cá đuối cá chim
(Mắt những con chim biển)
Họ là con người cụ thể gần gũi với nhà thơ, là cậu Nghẹo sống một cuộc đời buồn phiền cô đơn với rượu:
Một mình một rượu tái tê nỗi buồn Chiều chiều xin chị mấy đồng
Cơm rau thì ít rượu suông thì nhiều
(Thơ viết cho cậu Nghẹo)
Họ là một phụ nữ khuyết tật, nghèo trong ngõ phố với ước mơ đau đáu không phải cho mình:
…Bà Tư gù bán riêu cua bánh đúc Chỉ ước mơ con vào đại học nấu ăn
(Ngõ xuân)
Họ còn là người đạp xích lô vô danh, nhà họa sĩ nghèo nhưng không chịu bán tranh, là mẹ Trần, là chị Thứ ở lều chăn vịt, là người đàn bà góa trong khe sâu, là chị Sẹo Mây địu con chơi với ở Mũi Lèng, chị KlungLang trong chiều quét lá… Họ là người đàn bà Tày nghèo trong phiên chợ Rã ngày mưa…
Thơ Hoàng Việt Hằng khiến người đọc nhìn vào cuộc mưu sinh đầy khó khăn gian khổ, thấy những phận người lầm lũi, những gắng gỏi, an nhiên của họ để biết rằng cuộc sống của mình là hạnh phúc, cần phải quý trọng, nâng niu…Hoàng Việt Hằng viết về họ cũng như là nhu cầu đôi khi viết về chính mình. Vì con người nhỏ bé và lầm lũi là con người không xa lạ, không phải tìm. Có khi chẳng phải vượt ngàn cây số mà chỉ cần nhìn vào cuộc đời mình, viết về cuộc đời mình cũng đã là viết về họ. Người phụ nữ làm thơ đã phải gánh nỗi buồn duyên phận, đã coi mình như là một người vất vả và khổ đau tột bậc:
Tôi sống cuộc đời vất vả
Có đau khổ lớn hơn cả đau khổ
(Những dấu lặng)
Khổ đau như là số phận, như là định mệnh đã buộc cuộc đời chị với cuộc đời người lính – nhà văn “Như dấu chấm than viết ngược”. Và trong một nửa là thơ, một nửa là kiếp lạc đà ấy là vời vợi mênh mông nỗi buồn. Một người đàn bà cúi xuống những hạnh phúc và niềm đau của đời mình để rồi thốt lên “ Mình em khâu những mùa đông đời mình”. Đó là những thành công của Hoàng Việt Hằng khi thể hiện cái tôi cô đơn, đau khổ của một kiếp thi nhân – đàn bà.
2.2.3.2. Cái tôi tìm đến thiên nhiên để đồng cảm, chia sẻ
Hoàng Việt Hằng từng chia sẻ rằng, ham muốn lớn nhất của chị là được rong ruổi, ngược xuôi, có chút tiền gom được từ nhuận bút những bài viết in trên báo, là chị lại lên đường. Tiền ít thì dọc ngang Trung – Nam – Bắc với xe máy, xe khách, xe đạp, xe thồ…giản đơn nữa là đi bộ. Tiền nhiều thì ra nước ngoài, ngắm nhìn tận hưởng những khung trời lạ của miền đất lạ. Theo ghi chép hành trình thì điểm muốn đến của chị cũng như tâm lý một bà mẹ Phương Đông là thích tìm đường đến chùa chiền, thiên nhiên để đồng cảm và chia sẻ.
Thiên nhiên là môi trường tự nhiên của xã hội. Mối quan hệ với thiên nhiên của con người không những mang tính hợp lý hết sức thực tiễn mà mang tính xúc cảm đạo đức thẩm mỹ sâu sắc. Thiên nhiên vừa biến hóa không ngừng vừa tuần hoàn vĩnh cửu, mang mọi dáng vẻ của quá trình lưu chuyển đời sống con người: vừa vận động, biến suy, vừa bất biến vô hạn. Vì vậy, coi thiên nhiên như một phân thân của con người là một cảm quan mang tính nhân loại. Trong thơ trữ tình phương Đông, thiên nhiên được coi là một vũ trụ lớn, cõi tâm linh con người là một tiểu vũ trụ, vì vậy, cách thống nhất cái hữu hạn và bản thân mình với cái vô hạn của trời đất là một cách xác định phong thái tồn tại trong vũ trụ, hiện diện của cảm quan của con người in dấu trên trời đất. Tiếp nối quan niệm truyền thống đó, con người hiện đại vẫn tìm thấy mình trong dòng chảy của tự nhiên, diễn tả thiên nhiên nhưng thực chất là diễn tả sự vận động và dáng vẻ tâm hồn. Thiên nhiên trong Hoàng Việt Hằng rất đẹp có gió, có trăng, cát, biển, có buổi chiều đông, gió mùa, có mùa hoa cải vàng trên triền sông…nhưng không đơn giản là thiên nhiên khách quan, cái vĩnh cửu của nó là chỗ dựa cho sự bình yên, là sự chở che, là điểm tựa của tâm hồn, là nguồn thôi
thúc khát vọng của cảm xúc về cái đẹp, về hạnh phúc, về tình yêu. Thiên nhiên ấy như thực, như mơ nhưng sức sống của nó, sự tuần hoàn vĩnh cửu trẻ trung và tinh khôi của nó như nói hộ bản chất nữ tính muôn đời của người phụ nữ ấy dù đã trải qua bao niềm đau đớn nhưng tâm hồn chị không trở nên chai sạn, tàn nhẫn, khắc nghiệt mà vẫn là con người dịu dàng, nhân hậu, sống hết mình, yêu hết mình.
Từ nỗi đau, nỗi mất mát của chính số phận mình, chị hướng tới cảm thông với những số phận khác, sâu sắc hơn chị hòa cùng nỗi buồn nhân thế, hòa cùng với cỏ cây hoa lá để bộc lộ những nỗi niềm sâu kín trong lòng của kiếp thi nhân – đàn bà ấy. Dưới con mắt nhạy cảm của thi sĩ, cây cũng có một sức sống tiềm ẩn như con người, biết vượt qua giông bão đế đứng vững và vươn lên:
Em mới biết đến cây còn giông gió
Cây cũng lựa giông lựa bão đến bất ngờ Em chưa học cây nên tóc bạc
Thời khắc của bao người Cây vẫn tươi
(Một ngày sau đông chí)
Sức sống của cây thật mãnh liệt và khả năng chống trọi với thiên tai bất ngờ thật đáng để con người học hỏi. Đến cây còn biết lựa chọn cho mình một cuộc sống tốt đẹp huống chi là “em” – một người đàn bà bản lĩnh đã vượt qua bao nhiêu giông gió trong cuộc đời đau khổ của đời người cũng như những cơn “giông bão” đến bất ngờ nhưng cũng sẽ nhanh tan. Ý chí của “cây” trước giông bão là một tấm gương cho con người hỏi học, hình ảnh “Cây vẫn tươi” là biểu tượng cho một sức sống tiềm ẩn và mãnh liệt của sự sống của con người biết vượt qua gian nan thử thách để đứng vững trước sóng gió của cuộc đời. Và Hoàng Việt Hằng là một tấm gương như thế, có những lúc chị rơi vào hoàn cảnh trắng tay khi anh – người đàn ông của đời chị, là lẽ sống của chị bị số phận cướp mất, một mình vừa nuôi con vừa lo toan cuộc sống nhưng chị vẫn lạc quan vẫn nén những nỗi đau, những cô đơn để đi trọn hành trình mà chị lựa chọn: đi và viết nuôi con. Và với chị thì cây và gió là những người bạn tâm giao,luôn bên cạnh và an ủi chị trước giông gió của cuộc đời:
Cũng nghiêng ngả cùng cây và gió
Gió sẽ lau nước mắt của ta khô Gió sẽ lau bao tủi hờn thiếu nữ Cho ta vững chãi phận đàn bà
(Dưới gốc cây sưa đỏ)
Và với chị “cây sưa đỏ” ấy cũng giống như anh – hiểu và biết chia sẻ cùng chị trước những cực nhọc của cuộc sống:
Cây sưa đỏ hiểu ta như anh vậy Rụng vô hồi lá xuống bờ vai
Vịn vào cây sưa và đứng dậy Mưa xuân ủ ấm bàn tay gầy
Gán cho cây một tâm hồn để cùng tâm sự và chia sẻ - đó phải chăng là một cách để Hoàng Việt Hằng có nghị lực sống và vượt lên số phận nghiệt ngã của chính mình.
Cũng có lúc chị tự ví mình như cây “lầm lũi” sống và vươn lên: Bắt đầu từ mùa đông hoa cúc quỳ vàng Thương đá núi nở vàng vách núi
Sang xuân
Tôi và cây lầm lũi …đi
(Sìn Hồ ở cây số không)
Sinh ra và lớn lên ở Hà Nội nhưng chị lại chọn cho mình lối sống và cách viết hướng về nhà quê. Hình ảnh những vạt hoa cải nở vàng ven sông, hay hoa dã quỳ bình dị ở những nẻo đường mà chị đi qua rợp ngợp trong thơ chị, đó là chất nền nã của con người Thăng Long đã ngấm vào tâm hồn của Hoàng Việt Hằng. Hãy xem chị viết về thứ hoa dân dã ở những làng quê nghèo:
Hoa cải vàng Rực rỡ
Hoa cải vàng
Nở bên sông trong
(Hoa cải mùa đông)
Thứ hoa của rau chẳng bao giờ đem cắm vào bình, những vẫn hiện lên rực rỡ vẻ đẹp riêng của nó. Để từ đó thốt lên những niềm hoài niệm riêng khi nhìn những luống cải với màu vàng rực rỡ một nỗi buồn man mác cứ ẩn hiện theo những vạt cải vàng ven sông ấy:
Mới biết năm nào
Mùa đông hoa cải cũng nở hoa Mà thương nhớ của con người Không dễ dàng trở lại
(Hoa cải mùa đông)
Phải là người có trải nghiệm sâu sắc mới có những câu thơ triết lý về niềm thương nhớ của con người như thế, có những thứ qua rồi mới tiếc nuối và con người là thế đâu dễ dàng nhận ra những điều đang mất đi chỉ khi vụt khỏi tầm tay với mới thấy tầm quan trọng của nó. Và thương nhớ của con người cũng thế, có mấy ai đi qua thương nhớ mà quên được nhau, chỉ là tạm quên để lo toan cho cuộc sống mà thôi. Hoàng Việt Hằng cũng thế chị tạm gác nỗi đau mất chồng để sống cho con, cho thơ và cho những chuyến đi dài khi trót mắc nợ những số phận, những miền đất đã qua.
Trong thơ chị, nhiều lần từ “lữ khách” được nhắc đến. Thiên nhiên như người bạn đồng hành của chị, hình như ở đó chị tìm được sự chia sẻ, sự ký thác tâm hồn mình khi ta thấy chị:
Với bút nghiên Ngược sông Chu
Độc hành cũng giá rét
(Lam Kinh)
Khi ta lại thấy chị có mặt ở một vùng thảo nguyên nước Trung Hoa với một tâm trạng “rời rợi” khi nghe tiếng hát của người chăn cừu trên vùng đất thảo nguyên bao la:
Một chiều đồng cỏ lặng im
Lạc đà nhòa cát đổ nghiêng cuối trời Người chăn cừu hát cho tôi
Rời rợi cỏ thảo nguyên trôi trong người