* Không gian hiện thực cụ thể gắn với sự kiện lịch sử
Trong hồi kýCát bụi chân aikhông gian được nhà văn nhắc tới rất nhiều là không gian “cái dốc ngã sáu Hàng Kèn” [25. 385]. Đó là không gian của những sự kiện lịch sử đồng thời là không gian dành cho sự hồi tưởng của tác giả: “Những năm trước 60, ở cái dốc ngã sáu Hàng Kèn ban đêm thanh vắng lắm. Những cây sấu, cây sữa cũng chưa như mấy năm sau phải một trận bom Mỹ đánh sập hai ngôi nhà và mấy gốc cổ thụ” [25. 385, 386]. Một dòng hồi tưởng ngắn gọn nhưng đủ thấy sự đối lập trong cùng một không gian giữa hai khoảng thời gian khác nhau. Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, đất nước ta lại đối đầu đế với quốc Mỹ. “Cái dốc ngã sáu Hàng Kèn” – nơi không còn được bình yên và “thanh vắng” như trước nữa. Một trận bom Mỹ đã “đánh sập hai ngôi nhà và mấy gốc cổ thụ”. Đế quốc Mỹ đã tàn phá bao ngôi nhà, bao làng quê như thế. Tô Hoài không thống kê nhưng theo dòng hồi ức, ông đã đưa người đọc trở về với không gian của lịch sử, không gian của cuộc chiến tranh chống đế quốc Mỹ.
Ngược dòng lịch sử, theo dòng hồi ức tác giả, người đọc được trở về với không gian của những năm sau cách mạng tháng Tám. Trong những năm tháng chống thực dân Pháp, các nhà văn cũng tham gia vào sự kiện lịch sử đó: “Mùa hạ năm 1949, Nguyễn Tuân và tôi theo tiểu đoàn 54 Trung đoàn thủ đô tiến quân vào mở chiến dịch tiêu diệt một chuỗi cứ điểm hành lang bờ sông Thao án ngữ Tây Bắc, các đồn Đại Bục, Đại Phác, Khe Pịa, Ngòi Mác, Mã Yên Sơn lên đến đồn tiểu khu Phố Ràng” [25. 394]. Không gian được trải ra rất rộng, Tô Hoài đã gọi đó là “cứ điểm hành lang bờ sông Thao”. Được đi thực tế với các chiến sĩ, được chứng kiến những chiến thuật trong từng chiến dịch, các nhà văn mới thấy hết được sự khó khăn, gian khổ của cuộc chiến.
Nhắc đến các sự kiện lịch sử của đất nước, Tô Hoài muốn cho người đọc thấy được những giai đoạn gian khổ của dân tộc, những tháng năm đất
nước bị chìm trong khói lửa bom đạn chiến tranh để từ đó trân trọng nền độc lập và sự bình yên hôm nay.
Trong hồi ký của mình, Tô Hoài trên một lần nhắc tới không gian cánh rừng Thượng Yên. Cánh rừng Thượng Yên “trong một làng dân tộc Dao đỏ giữa một cánh rừng rậm bờ sông Lô trên bến Bình Ca” [25. 414] hiện lên với những hình ảnh đầy khắc nghiệt của một nơi căn cứ cách mạng. “Chưa bao giờ cơ quan rúc vào một nơi hóc hiểm đến thế. Nguyễn Tuân ngại nơi này nhất. Đến Thượng Yên, trong vùng rừng ẩm ướt Nguyễn Tuân mới thực sự bị những cơn sốt rét hành hạ.” [25. 414]. Những người cầm bút cùng “nếm mật nằm gai” với các chiến sĩ, họ càng thấu hiểu hơn sự gian khổ của cuộc kháng chiến chống giặc xâm lược. Khi được trực tiếp đến những nơi “hóc hiểm” các chiến sĩ trên mặt trận văn nghệ càng có nhiều tư liệu quí để viết, để dựng lại những năm tháng ác liệt của chiến tranh.
Tái hiện những tháng ngày bom đạn, Tô Hoài không chỉ miêu tả không gian rừng Thượng Yên mà nhà văn còn đưa người đọc đến một không gian thật đặc biệt mà ở đó “Các cửa hàng, phiếu thịt chỉ bán mỡ - mà họa hoằn mới có. Người đổ ra đường, suốt ngày nháo nhác sắp hàng, xếp hàng mua từ mớ rau đay. Bom đánh trên đầu, dưới đất thì kéo hàng dài người mua bán thế này, biết sẽ ra sao. ” [25. 596]. Chiến tranh “bom đánh trên đầu”, còn “dưới đất thì kéo hàng dài người mua bán”. Lúc này sự sống và cái chết mong manh như sợi chỉ. Những người xếp hàng mua từng mớ rau đay kia số phận sẽ như thế nào? Tô Hoài không miêu tả tiếp nhưng từ sự việc người đổ ra đường nháo nhác chúng ta cũng có thể hình dung được sự khốc liệt của hoàn cảnh. Từ không gian hiện thực này nhà văn gợi lên cho chúng ta thấy cuộc sống của người dân Việt Nam trong thời kỳ khó khăn khắc nghiệt, trong bầu không khí ngột ngạt của chiến tranh. Tô Hoài luôn miêu tả sự kiện ở điểm nhìn khách quan, tác giả không phân tích hay bình luận mà để cho người đọc tự cảm nhận
Có thể bạn quan tâm!
- Cái Nhìn Nhân Bản Nghiêng Về Cuộc Sống Sinh Hoạt Đời Thường
- Cái nhìn không gian và thời gian nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài Qua hồi ký Cát bụi chân ai và Chiều chiều - 5
- Không Gian Hiện Thực Cụ Thể Gắn Với Những Sự Kiện Đáng Nhớ
- Cái nhìn không gian và thời gian nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài Qua hồi ký Cát bụi chân ai và Chiều chiều - 8
- Cái nhìn không gian và thời gian nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài Qua hồi ký Cát bụi chân ai và Chiều chiều - 9
- Cái nhìn không gian và thời gian nghệ thuật trong hồi ký của Tô Hoài Qua hồi ký Cát bụi chân ai và Chiều chiều - 10
Xem toàn bộ 120 trang tài liệu này.
hiện thực cuộc sống qua các sự kiện. Không gian sự kiện này khiến cho người đọc có cảm giác lo lắng bởi cái chết dường như hiện diện ngay trên đầu mỗi người. Sự u ám và nguy hiểm bao trùm lên không gian đang tràn ngập bom đạn và thuốc súng.
Những sự kiện lịch sử xã hội có ý nghĩa được nhà văn chắt lọc và đặt trong một không gian rất rộng mở. Các sự kiện tuy không được sắp xếp theo trình tự thời gian mà theo dòng hồi tưởng của tác giả nhưng nó đã góp phần quan trọng phản ánh bức tranh hiện thực cuộc sống một thời kỳ đầy biến động.
* Không gian hiện thực cụ thể gắn với sự kiện đời tư
Trong hồi ký của Tô Hoài ngoài không gian sự kiện lịch sử còn có không gian sự kiện đời tư, đó là không gian gia đình, của cá nhân có những thay đổi ảnh hưởng tới cuộc sống, tâm lý của nhân vật.
Chúng ta đã được biết không ít chân dung nhà văn qua cái nhìn nhân bản nghiêng về cuộc sống sinh hoạt của Tô Hoài. Một lần nữa người đọc lại có dịp tái ngộ với họ thông qua không gian hiện thực gắn với sự kiện đời tư. Kháng chiến nổ ra gia đình các văn nghệ sĩ phải tản cư tới những nơi an toàn:
“Kháng chiến, Nguyên Hồng và Kim Lân đưa gia đình tản cư lên ấp Cầu Đen trên Nhã Nam. Các họa sĩ Trần Văn Cẩn, Tạ Thúc Bình, cả nhà bác Ngô Tất Tố cũng lên quây quần trên cái đồi thấp bấy giờ còn hoang vắng. Những vùng ở Xuân Áng (Phú Thọ) hay Quần Tín (Thanh Hóa) cũng tụ hội lại những làng văn nghệ sĩ kháng chiến. Nghe kể họa sĩ Trần Văn Cẩn được xã cấp cả ruộng, anh đi cày rất thạo.” [25. 422]. Sự kiện tản cư thời kháng chiến là chuyện không còn xa lạ đối với chúng ta – người dân của đất nước bị xâm lược. Tản cư để tránh sự càn quét của quân giặc. Gia đình các văn nghệ sĩ đều phải tạm thời xa nơi sinh hoạt quen thuộc của mình. Họ đến những vùng còn hoang vắng, nơi đó dần dần trở thành những làng văn nghệ sĩ kháng
chiến. Đến họa sĩ Trần Văn Cẩn xưa chỉ thạo bút lông để vẽ thì nay đã “cày rất thạo”.
Sau khi hòa bình, không ít nhà văn chuyển về Hà Nội. Và Nguyên Hồng về Hà Nội là một sự thay đổi trong cuộc sống gia đình cũng như bản thân nhà văn. “Về Hà Nội, Nguyên Hồng và vợ con thuê cái gác hai một nhà phố Miriben cũ bên cạnh viện mắt gần chợ Hôm… Chỉ thêm trẻ con chạy ra chạy vào lít nhít rối cả mắt. Chị ấy đã xin được làm nhân viên cửa hàng quốc doanh sách, đứng bán ở quầy góc nhà bách hóa tổng hợp bây giờ, phía cửa đường Hàng Bài ” [25. 422]. Không gian trở nên chật hẹp hơn ngày ở “dưới bãi Nghĩa Dũng”. Mọi thứ thời ấy đều khó khăn. Và sau đó đã có rất nhiều sự kiện ảnh hưởng tới Nguyên Hồng và cuộc sống của gia đình nhà văn. Biến cố đã xảy ra. Sau hội nghị bất thường thảo luận khẳng định cơ cấu của Hội Nhà văn, Nguyên Hồng lại chuẩn bị quay trở về Nhã Nam – nơi nhà văn đã từng ra đi. Hãy xem không gian gian phòng của Nguyên Hồng: “Gian phòng vẫn bề bộn màn mùng như mọi khi. Nhưng để ý thấy thì khác. Mọi thứ đã được gói, buộc lại như dạo trước tôi đã quen mắt thấy sáng sớm các thứ trong các nhà sắp sẵn để quẳng ra bờ rào tránh máy bay. Tôi gật gù, nhưng thật cũng chưa hiểu ra như thế nào… Rồi một hôm nghe Kim Lân nói Nguyên Hồng đã dọn về Nhã Nam. Không biết vợ chồng con cái gồng gánh như hôm tưng bừng trở về Hà Nội hay là thuê xe ba gác đẩy.” [25. 492]. Cuộc sống ở Hà Nội không níu giữ được Nguyên Hồng. Một con người đầy lòng tự trọng và “quyết đoán” [25. 492] khiến Nguyên Hồng “nhất định không ở nữa” [25. 493]. “Thế là bỏ hết, lại lên Nhã Nam, ấp Cầu Đen, ấp Đồi Cháy, lại ở đồi như những năm tản cư… Trên quả đồi lưa thưa tre pheo còn lại lơ thơ mấy nhà người làng, cái trường học cấp 1, mái lợp nứa, tường trình ụp xụp, quạnh quẽ. Lại vẫn ở cái nhà như từ hồi chạy Tây mới tản cư. Nhà tường đất, bờ rào cắm xương rồng ông, vũng nước giếng đất trong khe dưới chân đồi. Xa xa, trước mặt, bắt đầu
nhấp nhô những cánh rừng thấp trên Yên Thế Thượng. ” [25. 493]. Chính sự kiện lịch sử xã hội đã tác động đến sự kiện gia đình, đến tâm lý và hành động của nhân vật. Khi bị xúc phạm, bị tổn thương ông không ngần ngại bày tỏ thái độ: “- Ừ, Nhã Nam. Đủ, đủ lắm rồi. Ông đ. chơi với chúng mày nữa. Ông về Nhã Nam.”.
Trong hồi ký của mình, nhất là Cát bụi chân ai ở các điểm không gian hiện thực cụ thể, đặc biệt là không gian sự kiện gắn với cá nhân, chúng ta thấy Tô Hoài không bao giờ quên người bạn vong niên Nguyễn Tuân. Nhà văn có phong cách “ngông” đã xuất hiện không ít lần, mỗi lần xuất hiện là một lần người đọc ngạc nhiên. Đây là hình ảnh của nhà văn Nguyễn Tuân khi còn trẻ: “Chuyến tàu hỏa từ Pnôm Pênh ra đến Poipet vừa chập tối. Bấy giờ vào mùa thu 1930 (…). Cuối hàng ghế có hai người trẻ tuổi (…). Chuyến tàu hỏa ấy rầm rập suốt đêm xuống Vọng Các. Họ không chợp mắt được. Hãy còn hồi hộp vì may mắn và tự khen đã khôn ngoan, khéo léo che mắt được mật thám. Thế là đã bình yên ra khỏi xứ Cao Miên. Đến nửa buổi, tàu vào thành phố Vọng Các. Hai người ngơ ngác giữa nơi chưa biết bao giờ. Xung quanh, trong ga lớn, những đám người Xiêm, người Tàu, người Việt hỗn độn, tíu tít. Bốn cảnh sát Xiêm áo quần trắng toát, mũ viền kim tuyến và một đám lính vác súng trường quây đến. Một người nói tiếng Việt hỏi:
- Chúng mày là thằng Tuân, thằng Thiệp?
Đúng tên cúng cơm. Lính cảnh sát biết rồi, chỉ hỏi làm phép thế. Lúng túng, chưa biết trả lời sao, đã bị thừng trói giật cánh khuỷu cả hai lại. Báng súng thúc vào lưng, đẩy đi bộ qua các phố đông tấp nập.” [25. 500, 505]. Trong dòng hồi tưởng của mình, Tô Hoài đã xây dựng lên một hình ảnh chàng thanh niên Nguyễn Tuân “mặt non choẹt, chưa chắc đã được hai mươi tuổi” [25. 502], “Chán ghét cuộc sống ngột ngạt, bế tắc của người dân ở một nước thuộc địa, Nguyễn Tuân luôn mơ tưởng đến những phương trời xa.” [17. 599].
Chính vì thế mà ông đã tìm mọi cách để ra nước ngoài, và chuyến đi giang hồ ngoài vòng pháp luật của chế độ thực dân ấy đã khiến ông bị bắt ở Thái Lan cuối cùng thì bị đưa về giam tại nhà lao Thanh Hóa năm 1930. Tô Hoài đã lựa chọn sự kiện rất dặc biệt để bộc lộ cá tính của nhà văn Nguyễn Tuân. Cá tính ấy tạo nên cái “tôi” mang màu sắc riêng từ cái tôi của chủ nghĩa “xê dịch”. Tô Hoài tôn trọng sự thật. Ông ghi lại những sự kiện chân thực khi: “Ở Thanh Hóa, khi thôi bị quản thúc, Nguyễn Tuân ra Hà Nội, viết để sinh nhai và cho ra nhân vật nào cũng là nhân vật tôi.” [25. 519]. Thoát khỏi sự quản thúc, không “giang hồ” như trước nhưng “Trong sách cũng tương tự ngoài đời, người ấy tên là Nguyễn hay là Bạch cũng thế, trà tửu hậu chán chê rồi rời bỏ nơi ăn chơi, nhưng cũng không về nhà, bấy giờ nhà bác Nguyễn đã dời Thanh Hóa ra ở Ngã Tư Sở trên đất Mọc Thượng Đình quê hương.” [25. 519]. Chúng ta thấy được sự mâu thuẫn trong con người Nguyễn Tuân qua chi tiết rất thật này. Khi trở về với quê hương Nguyễn đã rơi vào vòng luẩn quẩn để rồi chán chường. Điều này biểu hiện rất rò trong sáng tác của ông trước cách mạng tháng Tám. Luẩn quẩn, buồn bã, nhưng cũng có lúc xót xa và hơn hết chúng ta vẫn thấy một nhân cách, một tâm hồn trung thực chưa hẳn đã khép kín trước cuộc đời.
Trong hồi ký Cát bụi chân ai, những bức thư của Nguyễn Tuân gửi cho Tô Hoài trong chuyến đi mấy tỉnh ở Tây Bắc để lại cho người đọc ấn tượng khó phai với cảnh sắc thiên nhiên vùng sơn cước, đặc biệt là không gian gắn với những sự kiện cá nhân của Nguyễn Tuân trong cảnh sắc thật đặc biệt. “Thư trước viết từ Simacai một ngày phiên chợ có nắng. Thư này viết sau ba ngày đi bộ liền 70km, dưới mưa, hôm trước mưa lũ to tắc suối phải vòng lên bản Mèo tránh lũ. Hôm trước mưa, hôm sau mưa, hôm sau nữa lại mưa nữa. (…). Người mình vẫn đang hâm hấp sốt, mấy hôm đi trong mưa vẫn sốt tiếp. Cao mang đi hết, phải nhờ địa phương tiếp cao cho mới rút đường
được như vậy. Mệt, khổ, nhưng hình ảnh lượm về giao thông bưu điện cũng không đến nỗi nghèo lắm. Đường dây Lào Cai như thế là căn bản tôi như tóm được đây rồi.” [25. 573]. Mặc dù Nguyễn Tuân luôn bị căn bệnh hành hạ “bộ xương đã buốt sẵn vì tê thấp mùa này” [25. 572] nhưng ông vẫn hăng hái đi và khám phá. Tất cả những gì nhà văn “thu lượm” được đều trở thành chất liệu cho các tác phẩm sau này của ông.
Trong nhà giam tại Hỏa Lò, cuộc phỏng vấn giữa “chúng tôi” và một tù binh Mỹ tên là Giôn, người bang Ôhiô diễn ra thật đặc biệt. Tô Hoài miêu tả rất kỹ thái độ cũng như trạng thái cảm xúc của Nguyễn Tuân: “Nguyễn Tuân cười khẩy (…)”, “Nguyễn Tuân nói nghiêm nghị (…)”, “Nguyễn Tuân cười nhạt (…)”, “Nguyễn Tuân gò gò đầu tẩu thuốc. Đấy là cách lấy lại bình tĩnh. Thế là bực mình rồi. Những tiếng bộp bộp nặng nề của cái gạt tàn thuốc trong đêm thanh vắng, làm những vết nhăn trên trán Nguyễn Tuân dãn ra. Nguyễn Tuân nói, thong thả (…)”, “Nguyễn Tuân đứng lên, hầm hầm trỏ tẩu thuốc vào mặt Giôn (…)”, “Nguyễn Tuân lắc đầu nhè nhẹ: “Giết người mà lại nói con người phải yêu thương nhau! Không hiểu!””, “Nguyễn Tuân lừ đừ đứng dậy, giơ tay: “Nhắc lại này: bao giờ mày được về thì nhớ học lại địa lý. Không có hai nước Hoa Kỳ, không có hai nước Việt Nam. Nhớ đấy”” [25. 630, 631, 632]. Với giọng điệu trần thuật tự nhiên nhưng cũng rất “tinh quái” Tô Hoài đã cho người đọc thấy một Nguyễn Tuân đầy đủ sắc thái tâm trạng, cảm xúc trong một không gian rất đặc biệt. Tô Hoài đã chân thực khi nhận xét: “Nguyễn Tuân trầm mặc, rất chính trị và một vẻ ta đây. (…). Nguyễn Tuân lý lẽ và cứng cỏi.” [25. 632]. Không phải ngẫu nhiên Tô Hoài lại đặt nhân vật của mình vào không gian như thế. Trong không gian này Nguyễn Tuân đã bộc lộ thái độ, quan điểm rò ràng của một con người bên này chiến tuyến với kẻ xâm lược. Với ngôn ngữ miêu tả rất “tự nhiên như hơi thở của cuộc sống” [40. 137] cùng với sự kiện hết sức đặc biệt Tô Hoài đã xây dựng
một chân dung Nguyễn Tuân hoàn chỉnh, không chỉ là con người bình thường mà cũng là con người “cũng đương chính trị” [25. 632]. Con người đã từng say sưa với những chuyến đi ấy có những lúc ông đã từ chối không đi Pari, phải chăng vì “hai cái chân đã rỗng cả ống của con người vốn khỏe đi ấy gây khó dễ cho sự đi, xóa mờ cả tâm tình song hồ phương trời rồi.” [25. 661]. Có thể sự ra đi của con người tài hoa, “ngông nghênh, ngạo nghễ” ấy đã được báo trước. Trước khi đi Cát Bà “Tôi đến chào khoe với Nguyễn Tuân một chuyến đi còm nhưng thú vị.” [25. 662]. Và những biểu hiện của Nguyễn Tuân: “Cái gậy song Sapa vàng cánh gián, tiếng chống xuống mặt gỗ lưa thưa rời rạc. Đoán được bước chân khó nhọc, nặng nề. Nguyễn Tuân bước vào, mặt bơ phờ tía tím, không phải mặt rượu đỏ hồng.” [25. 662] đã cho thấy vẻ mệt mỏi của tuổi già và những chuyến đi. Con người ta không ai tránh được quy luật của cuộc sống: “Buổi sáng có người đến bảo Đào Vũ và tôi:
- Đêm qua, nghe đài báo ông Nguyễn Tuân mất rồi.
Tôi nghĩ như vẫn buổi tôi ngồi một mình ở nhà ông, nhưng Nguyễn Tuân đã nằm yên từ buổi sáng hôm tôi ra đây. Nguyễn Tuân! Nguyễn Tuân ôi! Ô hô! Ô hô!” [25. 663, 664]. Bộc lộ tâm trạng đau buồn từ sự kiện cụ thể này người đọc có thể cảm nhận được nỗi buồn thấm thía của tác giả trước sự ra đi về còi vĩnh hằng của Nguyễn Tuân.
Một sự kiện khi viết về nhà thơ Nguyễn Bính không thể không nhắc đến là sự kiện mất con. Tô Hoài đã gắn sự kiện này trong một không gian khắc nghiệt để chúng ta thấu hiểu nỗi đau của người bố mất con: “Hiền (con gái của Nguyễn Bính) bụ bẫm, phúng phính rồi chẳng bao lâu Hiền còm nhom, ghẻ lở, mụn nhọn ghê người. Ngày ngày bố ẵm vác Hiền trên một bên vai, như mèo tha con. Đến đâu, từng đám ruồi nhặng xanh xám đuổi theo. Một tối kia, bố rượu say rồi bế Hiền thẩn thơ ra phố. Đến ngã sáu Bà Triệu – ô hay, làm sao mà bao nhiêu tâm sự nước mắt nụ cười của người viết truyện