Một Số Khuyến Nghị Đối Với Chính Phủ Và Ngân Hàng Nhà Nước


hình chung khó có thể tìm được khách hàng vay vì đến thời điểm hiện tại chuẩn tín dụng của các doanh nghiệp khá thấp do sức khỏe tài chính và khả năng hấp thụ vốn yếu. Bên cạnh đó, nếu việc hạ chuẩn không được xem xét và đánh giá kỹ có thể làm tăng nguy cơ rủi ro tín dụng cho ngân hàng.Vì vậy, các ngân hàng phải sâu sát hơn với doanh nghiệp, tư vấn cũng như hỗ trợ những doanh nghiệp có phương án, dự án kinh doanh hiệu quả nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện. Ngoài ra, ngân hàng cần xem xét các yếu tố, điều kiện nào không thể bỏ qua được thì bắt buộc doanh nghiệp phải thực hiện, còn những yếu tố, chỉ tiêu không quá cấp thiết có thể xem xét điều chỉnh lại cho phù hợp.

- Các ngân hàng cần nắm bắt chính sách hỗ trợ của NHNN và Chính phủ trong từng thời kỳ từ đó đưa ra những sản phẩm cho vay linh hoạt, đa dạng nhằm tạo điều kiện tối đa trong việc cung cấp nguồn vốn cho hoạt động của doanh nghiệp. Cụ thể như thông tư số 10/2015/TT-NHNN về chính sách hỗ trợ nguồn vốn cho vay lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn theo đó ngân hàng sẽ được NHNN tái cấp vốn cũng như giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc hay ngày 27/5 vừa qua, Ngân hàng Nhà nước ban hành Thông tư số 07/2016/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 24/2015/TT-NHNN quy định hoạt động cho vay bằng ngoại tệ. Theo đó, một nhóm đối tượng là các doanh nghiệp xuất khẩu sẽ được trở lại vay vốn bằng ngoại tệ, sau khi cơ chế đã khép lại từ ngày 1/4.

- Đối với lĩnh vực cho vay cá nhân, ngân hàng cần quảng bá rộng rãi, thiết kế những sản phẩm cho vay đa dạng, phong phú và phù hợp với từng đối tượng. Mỗi sản phẩm nên được tóm tắt những lợi thế, quyền lợi mà khách hàng được hưởng khi vay vốn và điều đặc biệt là những thông tin đó phải đến được với khách hàng bằng nhiều phương thức khác nhau như poster, email, điện thoại, truyền hình…Bên cạnh đó, ngân hàng cần tận dụng chính sách hỗ trợ của NHNN để giúp khách hàng nhận được những ưu đãi nhằm tạo thiện cảm cũng như giữ được mối quan hệ lâu dài và trung thành của khách hàng. Nổi bật gần đây là sự lo lắng về gói vay hỗ trợ 30,000 tỷ đối với khách hàng cá nhân và tin vui đã đến khi Thủ tướng Chính phủ đồng ý với đề nghị của NHNN Việt Nam tại công văn số 3954/NHNN-TD ngày


30/5/2016 về phương án gia hạn Chương trình cho vay hỗ trợ nhà ở. Cụ thể là cho phép gia hạn giải ngân tái cấp vốn đối với các hợp đồng tín dụng đã ký trước ngày 31/3/2016 đối với các khách hàng là cá nhân, hộ gia đình vay để mua, thuê, thuê mua nhà ở, xây dựng mới, cải tạo sửa chữa lại nhà ở của mình tối đa đến ngày 31/12/2016. Việc đồng hành và hỗ trợ khách hàng trong giai đoạn khó khăn sẽ giúp ngân hàng củng cố thêm lòng tin của khách hàng và khẳng định thương hiệu của mình. Ngoài ra, những khách hàng vay vốn cũng tạo ra khoản thu nhập phi lãi cho ngân hàng trong việc sử dụng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt và những sản phẩm đi kèm.

5.2.4. Về chi phí hoạt động


Ở chương 4 kết quả phân tích thực nghiệm đã cho thấy rằng chi phí hoạt động là một trong những yếu tố tác động và có mối quan hệ ngược chiều đến tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng TMCP tại Việt Nam. Điều đó có nghĩa là việc cắt giảm chi phí hoạt động một cách hợp lý sẽ làm tăng TSSL của ngân hàng và dưới đây là những biện pháp có thể được áp dụng giúp ngân hàng tiết giảm chi phí:

- Giảm chi phí hoạt động kinh doanh tức chủ yếu là chi phí cho việc huy động vốn. Để giảm được chi phí này ngân hàng cần nâng cao hiện đại hóa công nghệ, các tiện ích và sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại dựa trên công nghệ kỹ thuật tiên tiến để thu hút được lượng lớn tiền gửi thanh toán của cá nhân cũng như các tổ chức kinh tế. Đồng thời giảm tối đa các nguồn vốn huy động với giá cao như huy động dưới hình thức trái phiếu.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.

- Đối với chi phí quản lý phục vụ cho hoạt động kinh doanh, ngân hàng cần xây dựng định mức và kiểm soát chặt chẽ các khoản chi phí như văn phòng phẩm, chi cho công tác phí, điện thoại, chi phí tổ chức du lịch, hội họp, khám chữa bệnh… Trên thực tế ngân hàng có thể dùng nhiều biện pháp như quy định hạn mức tối đa chi phí văn phòng phẩm đối với mỗi nhân viên, kêu gọi chính sách tiết kiệm chẳng hạn sử dụng lại giấy một mặt, hạn chế sử dụng những thiết bị không cần thiết, tổ chức chương trình đoàn thể nhằm hưởng ứng các hoạt động như tiết kiệm điện,


Các yếu tố tác động đến tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng TMCP tại Việt Nam - 11

nước; kết hợp tổ chức đi du lịch với hội nghị người lao động và giao lưu khách hàng; đăng ký tham gia các khóa đào tạo online nhằm tiết kiệm chi phí đi lại và học tập. Một điều mà các nhà quản lý cần quan tâm là nâng cao ý thức trách nhiệm biết giữ gìn và quản lý tài sản của mỗi cán bộ công nhân viên, tổ chức dưới hình thức có thưởng những cuộc thi sáng tạo về cách tiết giảm chi phí hoạt động và xây dựng không gian làm việc sạch, đẹp nhằm khích lệ tinh thần phát triển và không ngừng đổi mới.

- Đối với các tài sản cố định, công cụ lao động hư hỏng, ngân hàng cần tiến hành thanh lý hay nhượng bán để thu lại một phần giá trị và tiết kiệm chi phí khấu hao hàng tháng cho các tài sản này. Ngoài ra công tác khấu hao cần phải tiến hành đồng bộ, liên tục và đúng nguyên tắc. Bên cạnh đó, cần thường xuyên kiểm tra đánh giá cơ sở vật chất nhằm tránh sự mất mát cũng như lãng phí trong việc sử dụng tài sản của Ngân hàng và tạo cơ sở cho hoạt động trích khấu hao được thuận lợi, chính xác.

- Khoản chi phí đáng kể phải nói đến hiện nay là chi phí cho cán bộ công nhân viên. Theo thống kê của KPMG từ báo cáo bán niên 2013 cho thấy nhiều ngân hàng kể cả quốc doanh hay cổ phần vẫn dành gần một nửa chi phí hoạt động cho trả lương dù hầu hết đã nỗ lực giảm dần tỷ lệ này. Bên cạnh đó nếu tính về nhân sự, công ty kiểm toán KPMG cho rằng các ngân hàng vẫn không ngừng tuyển dụng mới do đang chịu áp lực mở rộng phạm vi hoạt động khi kinh tế dần hồi phục. Ngoài ra, sức ép tăng thị phần từ các ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam đang rất gắt gao nên để cạnh tranh các ngân hàng nội địa buộc phải tìm cách tăng số lượng chi nhánh, phòng giao dịch dẫn đến tăng số nhân viên. Do đó, để tiết kiệm được chi phí này, ngân hàng cần tập trung phát triển sản phẩm dịch vụ kết hợp với công nghệ kỹ thuật hiện đại như Internet Banking, Mobile Banking và các sản phẩm thanh toán không dùng tiền mặt nhằm hạn chế chi phí khi giao dịch thủ công. Mặt khác, các nhà quản lý cần chú trọng thêm về mặt tuyển dụng nhân sự phù hợp với vị trí công việc, tránh trùng lắp và dư thừa; đưa ra các chương trình đào tạo hữu ích nhằm nâng cao


trách nhiệm, thái độ nghề nghiệp và đánh giá kết quả công việc dựa trên tiêu chuẩn khoa học.

5.2.5. Về quy mô vốn chủ sở hữu


Kết quả phân tích thực nghiệm ở chương 4 đã cho thấy rằng quy mô vốn chủ sở hữu là một trong những yếu tố tác động và có mối quan hệ cùng chiều đến tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng TMCP tại Việt Nam. Điều này nghĩa là thực tế ngân hàng có quy mô vốn chủ sở hữu lớn sẽ có nhiều lợi thế cạnh tranh và tiếp cận được nguồn vốn giá rẻ, từ đó giúp nâng cao TSSL đặc biệt là trong thị trường hiện nay với rất nhiều những ngân hàng nước ngoài có tiềm lực tài chính mạnh mẽ. Bên cạnh với việc tăng quy mô vốn, ngân hàng phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, quản trị vốn tốt và tránh tình trạng dư thừa quá nhiều vốn không sinh lợi. Vì vậy những giải pháp đưa ra sẽ giúp ngân hàng tăng quy mô vốn chủ sở hữu đồng thời tăng tính hiệu quả sử dụng vốn.

- Ngân hàng có thể tăng vốn thông qua bán cổ phần cho nhà đầu tư chiến lược nước ngoài bởi điều đó không chỉ cho phép bản thân ngân hàng tăng thêm tiềm lực về tài chính mà còn có thể học hỏi, được hỗ trợ thêm kinh nghiệm về ứng dụng công nghệ và quản trị ngân hàng. Bên cạnh đó, ngân hàng có thể đáp ứng tốt hơn các nhu cầu dịch vụ đặc biệt là thanh toán quốc tế, mua bán ngoại tệ, chuyển tiền, kiều hối, đầu tư….vì các tập đoàn ngân hàng nước ngoài luôn là những người có kinh nghiệm lâu năm và đạt hiệu quả cao trong lĩnh vực này. Ngoài ra, ngân hàng nên đa dạng hóa danh mục các đối tác chiến lược với nhiều lĩnh vực hoạt động khác nhau, điều đó sẽ giúp ngân hàng có thêm nhiều cơ hội thực hiện việc cung cấp các sản phẩm, dịch vụ bán lẻ đa dạng và tiện ích mà đại đa số các ngân hàng hiện nay đang hướng tới khi hoạt động.

- Sáp nhập các ngân hàng nội địa quy mô nhỏ, khó trụ vững trên thị trường để tạo ra những ngân hàng đủ mạnh về tiềm lực tài chính, cạnh tranh ngang ngửa với những ngân hàng nước ngoài là một xu hướng mang tính tất yếu và không thể nào tránh khỏi. Một ngân hàng mạnh sáp nhập với một ngân hàng yếu hơn sẽ thuận


lợi về mặt văn hóa, cách thức kinh doanh, tăng sự hiểu biết về thị trường trong nước và giảm được cạnh tranh trong ngành. Tuy nhiên, trong thực tế tiềm lực của hầu hết các ngân hàng trong nước còn yếu nên việc sáp nhập ồ ạt đến mức chỉ còn vài ngân hàng chủ lực cũng không phải là quyết định tốt nhất. Mặt khác, các ngân hàng mạnh đôi khi cần tập trung lành mạnh hóa hoạt động của mình, không muốn gánh thêm ngân hàng yếu kém và giữa hai ngân hàng nội với nhau cũng khó mang lại sự thay đổi căn bản về mặt quản trị. Vì vậy, các ngân hàng cần xem xét kỹ những yếu tố trước và sau khi sáp nhập để đưa ra quyết định đúng đắn cho hoạt động kinh doanh của mình.

- Bên cạnh việc tăng vốn chủ sở hữu thì việc quản trị vốn tốt, tránh tình trạng dư thừa những nguồn vốn không sinh lợi cũng là điều quan trọng giúp ngân hàng gia tăng TSSL. Vì vậy các ngân hàng cần có chiến lược tăng vốn rõ ràng, cụ thể qua từng giai đoạn và tránh tình trạng tăng liên tục trong một thời gian mà không có phương án sử dụng hiệu quả. Không những thế, cổ đông của ngân hàng phải nắm rõ chiến lược, đóng góp ý kiến và cùng nhau thảo luận đảm bảo lượng vốn tăng thêm mang lại lợi nhuận cho chính các cổ đông nói riêng và cho ngân hàng nói chung.

5.2.6. Về quy mô ngân hàng


Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng quy mô tổng tài sản là một trong những yếu tố tác động và có mối quan hệ cùng chiều đến tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng TMCP tại Việt Nam. Có nghĩa là nếu quy mô tài sản tăng sẽ tác động làm tăng tỷ suất sinh lợi của ngân hàng và dưới đây là một vài biện pháp ngân hàng có thể vận dụng để tăng quy mô của mình

- Danh mục tài sản của ngân hàng bao gồm các tài sản có sinh lời và tài sản không sinh lời. Những tài sản có sinh lời góp phần mang lại thu nhập cho ngân hàng như thu nhập lãi của các khoản cho vay khách hàng, thu nhập từ lãi của các chứng khoán đầu tư, thu nhập từ hoạt động góp vốn, mua cổ phần...nhưng nếu tài sản có sinh lời quá cao trong khi tài sản không sinh lời thấp thì ngân hàng rất dễ


gặp rủi ro thanh khoản. Vì vậy, các ngân hàng cần phải thiết lập một danh mục tài sản tối ưu nhằm đảm bảo an toàn trong hoạt động, phân tán rủi ro nhưng vẫn đảm bảo gia tăng khả năng sinh lời.

- Trên thực tế, hiện nay các ngân hàng vẫn đang cố gắng mở rộng mạng lưới hoạt động kinh doanh kèm theo phát triển đa dạng các sản phẩm, dịch vụ nhằm nâng cao thị phần, tăng tiềm lực kinh tế cũng như tiếp cận thương hiệu đến gần hơn với khách hàng. Tuy nhiên, việc tăng thêm các chi nhánh, phòng giao dịch có thể làm tăng thêm chi phí quản lý, hoạt động, chi phí lương cho nhân viên…làm giảm lợi nhuận của ngân hàng. Điều đó đòi hỏi các nhà quản trị phải tính toán thật kĩ càng và cân nhắc xem lợi nhuận mang lại từ việc mở rộng quy mô có đủ bù đắp chi phí hoạt động, đặc biệt là vị trí đặt trụ sở ngân hàng phải là những nơi đông dân cư, khu dân cư mới xây theo các dự án hoặc các quận ở ngoại ô trung tâm nhưng có tiềm năng phát triển cao.

5.3. Một số khuyến nghị đối với Chính phủ và Ngân hàng nhà nước


Để có thể vận dụng các giải pháp nâng cao sự tác động của các yếu tố đến TSSL của ngân hàng thì không thể thiếu sự quan tâm của Chính phủ cũng như những chính sách điều hành sát sao của Ngân hàng Nhà nước trong từng thời kỳ nhằm nâng ngân hàng nội địa lên ngang tầm với các ngân hàng quốc tế.

5.3.1. Khuyến nghị đối với Chính phủ


Đầu tiên, Chính phủ cần hoàn thiện hệ thống luật pháp nhằm xây dựng hệ thống NHTM lành mạnh, minh bạch, vận hành theo cơ chế thị trường có sự kiểm soát chặt chẽ của Chính phủ. Để thực hiện được điều đó, Chính phủ phải quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng loại hình ngân hàng để tránh những đặc điểm riêng có của loại hình ngân hàng này trở thành lợi thế cạnh tranh không công bằng với loại hình ngân hàng khác. Ngoài ra, việc cân đối hài hòa giữa mục tiêu kiềm chế lạm phát và tăng trưởng kinh tế cũng là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Chính phủ nhằm tạo ra môi trường hoạt động an toàn và phát triển ổn định, bền vững cho các ngân hàng TMCP tại Việt Nam.


Bên cạnh đó, Chính phủ cần tập trung và có những biện pháp tháo gỡ khó khăn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, đưa ra nhiều chính sách hỗ trợ tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn vay ngân hàng một cách hiệu quả như giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hạ lãi suất vay cho ngân hàng đối với những ngành, lĩnh vực kém hoặc có tiềm năng phát triển. Những chính sách khuyến khích đầu tư trong nước, thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài, tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh cho các thành phần kinh tế và thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là những mục tiêu cần sự hỗ trợ hơn nữa từ Chính phủ nhằm đảm bảo một nền kinh tế ngày càng phát triển cũng như môi trường kinh doanh lý tưởng cho các ngân hàng TMCP.

5.3.2. Khuyến nghị đối với Ngân hàng nhà nước


Ngân hàng Nhà nước Việt Nam là cơ quan ngang Bộ của Chính phủ, Ngân hàng Trung ương của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam; thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ, hoạt động ngân hàng và ngoại hối; thực hiện chức năng của Ngân hàng Trung ương về phát hành tiền, ngân hàng của các tổ chức tín dụng và cung ứng dịch vụ tiền tệ cho Chính phủ; quản lý nhà nước các dịch vụ công thuộc phạm vi quản lý của Ngân hàng Nhà nước theo Nghị định 156/2013/NĐ-CP ngày 11/11/2013. Do đó, NHNN cần nâng cao năng lực quản lý, điều hành nhằm xây dựng một NHTW hiện đại phù hợp với thông lệ chung của thế giới, đảm bảo tính độc lập trong việc điều hành chính sách tiền tệ và quản lý nhà nước về hoạt động ngân hàng.

Với tình trạng nợ xấu xảy ra tại các NHTM tại Việt Nam hiện nay, NHNN đã đưa ra chỉ thị 02/CT-NHNN ngày 28/1/2015 được đánh giá là bước đi quyết liệt của cơ quan quản lý nhà nước trong việc thực hiện đề án tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó, NHNN cần theo dõi, giám sát và yêu cầu các NHTM nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của pháp luật về cơ cấu lại nợ, phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro; nghiêm cấm sử dụng biện pháp che giấu nợ xấu, phản ánh sai lệch chất lượng tín dụng và kết quả kinh doanh; nghiêm cấm lợi dụng việc xử lý nợ


xấu để trục lợi, vi phạm pháp luật, gây thiệt hại về tài sản và kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng.

Ngoài ra, NHNN cần hoàn thiện khuôn khổ pháp lý liên quan tới xử lý nợ xấu, đồng thời xây dựng và trình Thủ tướng Chính phủ phê duyệt phương án mua, xử lý nợ xấu theo cơ chế thị trường để đảm bảo và phát huy vai trò thực sự của VAMC. Bên cạnh đó, NHNN phải luôn theo dõi, ra các chỉ thị khi cần thiết yêu cầu VAMC phải tăng cường phối hợp chặt chẽ với NHTM trong việc thu hồi nợ, cơ cấu lại nợ, bán và xử lý nợ, tài sản bảo đảm đối với các khoản nợ xấu đã mua; hỗ trợ tài chính cho khách hàng vay phục hồi sản xuất- kinh doanh, hoàn thiện các dự án dở dang; tiếp xúc, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia mua, xử lý nợ xấu và giải quyết tài sản bảo đảm. Phương án xử lý nợ xấu thứ hai mà NHNN cũng phải chú ý và tiếp tục triển khai mạnh mẽ nhằm đảm bảo môi trường hoạt động bền vững và tăng khả năng cạnh tranh của các NHTM đó là việc cơ cấu lại hệ thống ngân hàng thông qua M&A. Đây là việc cần thiết mà NHNN cần phải quan tâm và đưa ra định hướng cơ cấu lại trong thời gian tới vì M&A không chỉ giảm sở hữu chéo trong hệ thống NHTM nói chung và hệ thống tín dụng nói riêng mà còn giúp các ngân hàng tăng sức cạnh tranh trên thương trường.

Cuối cùng, NHNN cần tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh khuôn khổ pháp lý và cơ chế chính sách nhằm tạo nên một hành lang pháp lý vững chắc đảm bảo cho hoạt động của các ngân hàng được thuận lợi, hạn chế tối thiểu những rủi ro và sự cố có thể xảy ra.

5.4. Hạn chế của đề tài nghiên cứu


Mặc dù đề tài đã tiếp thu trên nền tảng của những nghiên cứu trước và mở ra hướng đi mới cho đề tài nhưng vẫn còn tồn tại một số hạn chế sau

Tính tới thời điểm hiện nay có 31 ngân hàng TMCP hoạt động tại Việt Nam nhưng do hạn chế về việc công bố dữ liệu rộng rãi của tất cả các ngân hàng trong toàn hệ thống và để có được đầy đủ dữ liệu đồng nhất cho các mẫu cần nghiên cứu

Xem tất cả 123 trang.

Ngày đăng: 09/08/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí