nhân viên, một trong những chi phí chiếm tỷ trọng cao nhất trong chi phí hoạt động của ngân hàng.
Tính thanh khoản (LIQ)
LIQ - Biến tính thanh khoản có hệ số hồi quy dương và có ý nghĩa thống kê ở mức ý nghĩa 1% đối với ROE và 5% đối với ROA. Nếu các yếu tố khác không đổi thì khi khả năng thanh khoản tăng 1% thì ROE tăng 13,967% và ROA tăng 1,095%. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Heffernan and Fu (2008) về mối quan hệ cùng chiều giữa tính thanh khoản và TSSL của ngân hàng. Điều này cũng phù hợp với tình hình hoạt động hiện nay của các ngân hàng TMCP tại Việt Nam khi những ngân hàng có tính thanh khoản cao sẽ giảm nguy cơ phá sản vì chúng có thể chịu được rủi ro tài chính xảy ra đồng thời giảm được chi phí vay vốn từ các nguồn vốn tài trợ bên ngoài từ đó giúp gia tăng TSSL. Bên cạnh đó, việc thiếu hụt vốn tạm thời trong quá trình hoạt động kinh doanh là điều khó tránh khỏi và nếu ngân hàng có khả năng thanh khoản tốt sẽ tiết kiệm chi phí vay vốn một cách đáng kể giúp gia tăng lợi nhuận cho ngân hàng.
Tỷ lệ lạm phát (INF)
INF - Biến tỷ lệ lạm phát mang giá trị dương và có ý nghĩa thống kê đối với ROE ở mức ý nghĩa 5% nhưng lại không có ý nghĩa thống kê đối với ROA. Nếu các yếu tố khác không đổi thì khi tỷ lệ lạm phát tăng 1% thì ROE tăng 7,309%. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Molyneux và Thornton (1992), Gul, Irshad và Zaman (2011), Sufian (2011). Sự tác động tích cực cho thấy các các nhà quản trị ngân hàng đã dự đoán được lạm phát kỳ vọng và điều chỉnh lãi suất phù hợp nhằm đạt mức lợi nhuận cao hơn. Thực tế tại Việt Nam, trong giai đoạn lạm phát khá cao đặc biệt là năm 2008 (22,97%), năm 2010 (9,19%) và năm 2011 (18,58%), các ngân hàng đã chủ động nâng lãi suất huy động lên cao hơn lạm phát dưới các hình thức chi khuyến mãi, chi tiền mặt bên ngoài, chi hoa hồng môi giới ..... để cạnh tranh trong việc huy động vốn. Bên cạnh đó, các ngân hàng cũng tăng lãi suất cho vay lên khá cao để có thể bù đắp được chi phí huy động vốn của mình, vì vậy trong giai đoạn này lạm phát tăng làm tăng hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 4
Có thể bạn quan tâm!
- Phương Pháp, Dữ Liệu Và Kết Quả Nghiên Cứu Các Yếu Tố Tác Động Đến Tỷ Suất Sinh Lợi Của Các Ngân Hàng Tmcp Tại Việt Nam
- So Sánh Giữa Các Mô Hình Pooled Ols, Fem, Rem Của Mô Hình Nghiên Cứu 01
- Kết Quả Kiểm Định Bằng Phương Pháp Bình Phương Bé Nhất Tổng Quát Khả Thi - Fgls Trong Mô Hình Nghiên Cứu 01
- Một Số Khuyến Nghị Đối Với Chính Phủ Và Ngân Hàng Nhà Nước
- So Sánh Giữa Các Mô Hình Pooled Ols, Fem, Rem So Sánh Giữa Mô Hình Pooled Ols Và Fem:
- Kiểm Định Các Giả Thuyết Hồi Quy Mô Hình Nghiên Cứu 01
Xem toàn bộ 123 trang tài liệu này.
Với mục tiêu phân tích các yếu tố tác động đến TSSL của các ngân hàng TMCP tại Việt Nam, nghiên cứu sử dụng dữ liệu bảng của 22 ngân hàng TMCP trong khoảng thời gian từ 2008-2015. Kết quả nghiên cứu định lượng đã lựa chọn ra được mô hình phù hợp nhất giải thích sự thay đổi TSSL của ngân hàng là mô hình FGLS. Các biến có ý nghĩa thống kê đối với ROA là quy mô vốn chủ sở hữu (CAP), dự phòng rủi ro tín dụng (LLR), chi phí hoạt động (COSR) và tính thanh khoản (INF). Đối với biến phụ thuộc ROE có 6 biến có ý nghĩa thống kê là quy mô ngân hàng (SIZE), dư nợ cho vay (LOAN), dự phòng rủi ro tín dụng (LLR), chi phí hoạt động (COSR), tính thanh khoản (INF) và tỷ lệ lạm phát (INF). Kết quả hồi quy mô hình FGLS cho thấy tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng TMCP tại Việt Nam bị tác động bởi cả 7 yếu tố, tuy nhiên theo kết quả ước lượng thì những yếu tố này chưa giải thích hết được lợi nhuận của ngân hàng mà vẫn còn những yếu tố khác tác động nhưng chưa được nghiên cứu bao quát hết trong mô hình đề ra. Qua kết quả hồi quy ta càng thấy rõ được tầm quan trọng của các yếu tố tác động đến tỷ suất sinh lợi, điều này sẽ giúp rất nhiều cho các nhà quản trị ngân hàng, nhà đầu tư và các nhà hoạch định chiến lược với kế hoạch hoạt động kinh doanh trong tương lai của mình. Vì thế, giải pháp nhằm nâng cao TSSL cho các ngân hàng TMCP tại Việt Nam được đưa ra ở chương tiếp theo sẽ dựa vào các kết quả nghiên cứu trên.
CHƯƠNG 5: GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ GÓP PHẦN NÂNG CAO TỶ SUẤT SINH LỢI CỦA CÁC NGÂN HÀNG TMCP TẠI VIỆT NAM
5.1. Định hướng phát triển ngành ngân hàng trong thời gian tới
Để đạt được hiệu quả hoạt động cao trong môi trường cạnh tranh khốc liệt hiện nay thì các ngân hàng ngoài việc tuân thủ theo chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ và chính sách của NHNN trong từng thời kỳ thì còn phải nắm bắt được định hướng phát triển của ngành để từ đó đặt ra chiến lược phát triển riêng cho mình. Giai đoạn 1 của quá trình tái cơ cấu hệ thống ngân hàng Việt Nam từ 2011 – 2015 theo quyết định 254/QĐ-TTg ngày 1/3/2012 của Thủ tướng Chính phủ đã khép lại với nhiều chuyển biến tích cực. Không dừng lại ở đó, Thủ tướng Chính phủ đã tiếp tục phê duyệt Chiến lược phát triển ngành ngân hàng Việt Nam định hướng đến năm 2020 theo quyết định số 112/2006/QĐ-TTG nhằm định hướng phát triển hoạt động ngành ngân hàng trong thời gian sắp tới như tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm tạo hành lang pháp lý có hiệu lực, đảm bảo sự bình đẳng an toàn cho mọi tổ chức hoạt động dịch vụ tài chính ngân hàng trên lãnh thổ Việt Nam; xây dựng các qui chế quản lý và hoạt động phù hợp với chuẩn mực quốc tế như quản trị rủi ro, quản trị nguồn vốn, kiểm tra kiểm toán nội bộ, xây dựng quy trình tín dụng hiện đại; đổi mới mô hình tổ chức bộ máy của các NHTM theo hướng hiện đại hóa…..Tất cả để thực hiện phương châm hành động của các NHTM là "An toàn - Hiệu quả - Phát triển bền vững - Hội nhập quốc tế".
5.2. Một số giải pháp đối với các ngân hàng TMCP tại Việt Nam
Dựa trên định hướng phát triển ngành ngân hàng theo quyết định số 112/2006/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ, thực trạng tỷ suất sinh lời của các ngân hàng TMCP tại Việt Nam ở chương 3 và kết quả hồi quy các mô hình nghiên cứu ở chương 4, đề tài sẽ đưa ra các giải pháp gia tăng tỷ suất sinh lời của các NHTM. Các yếu tố tác động cùng chiều theo thứ tự giảm dần bao gồm rủi ro tín
dụng, khả năng thanh khoản, dư nợ cho vay khách hàng, tỷ lệ lạm phát, quy mô vốn chủ sở hữu và quy mô ngân hàng. Yếu tố tác động ngược chiều là chi phí hoạt động của ngân hàng và thứ tự giải pháp được đưa ra sẽ dựa trên mức độ tác động của các biến ở kết quả nghiên cứu thực nghiệm.
5.2.1. Về rủi ro tín dụng
Dựa trên kết quả phân tích thực nghiệm ở chương 4 thì rủi ro tín dụng là yếu tố tác động mạnh nhất và có mối quan hệ cùng chiều đến tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng TMCP tại Việt Nam. Kết quả thực nghiệm ủng hộ cho quan điểm nghiên cứu của Heffernan and Fu (2008) cho rằng rủi ro tín dụng cao sẽ có tác động tích cực đến lợi nhuận của ngân hàng nếu như chất lượng tài sản tốt. Trên cơ sở đó nếu ngân hàng muốn đạt TSSL cao thì đồng thời phải chấp nhận rủi ro cao nhưng chất lượng tài sản phải tốt và được thẩm định chặt chẽ để hạn chế tổn thất cho ngân hàng.Vì thế để nâng cao tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng TMCP tại Việt Nam tác giả sẽ đưa ra những giải pháp để gia tăng chất lượng tài sản đồng thời hạn chế nợ xấu xảy ra gây ảnh hưởng đến lợi nhuận ngân hàng.
Một là trong hoạt động cấp tín dụng, các ngân hàng cần xây dựng, ban hành các quy định nội bộ để hướng dẫn, kiểm tra và giám sát đối với việc định giá tài sản bảo đảm trong quá trình cho vay. Việc đánh giá giá trị thị trường của tài sản bảo đảm là rất khó khăn do có các yếu tố định tính, vì vậy sẽ phát sinh trường hợp có sự thông đồng trong việc nâng khống giá trị tài sản bảo đảm khi làm hồ sơ vay để trục lợi và gây tổn thất cho ngân hàng. Do đó việc tổ chức thường xuyên các lớp học không những nâng cao chuyên môn nghiệp vụ, cập nhật thường xuyên các văn bản quy phạm pháp luật của NHNN và Thủ tướng Chính phủ mà còn nâng cao đạo đức nghề nghiệp của cán bộ. Ngoài ra, các ngân hàng cần phải rà soát và tăng cường quản trị rủi ro, trong đó có rủi ro tín dụng và quy định về xác định giá trị tài sản bảo đảm; tích cực hoàn thiện quy định về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động của TCTD theo thông tư số 02/2013/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước.
Hai là các ngân hàng cũng nên chủ động xây dựng hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và hệ thống xếp hạng tài sản đảm bảo bằng việc tính toán những chỉ tiêu đánh giá phù hợp với đặc thù của từng ngân hàng chứ không chỉ dựa vào những chỉ tiêu theo quy định của NHNN. Ngoài ra, đối với mức nợ xấu tồn đọng của những năm trước, các ngân hàng cần phải nghiên cứu phương án giải quyết, lành mạnh hóa tài chính bởi nợ xấu sẽ làm cho tình hình tài chính của các ngân hàng không lành mạnh, thanh khoản khó khăn; một số ngân hàng thương mại đứng trước nguy cơ đổ vỡ, đe dọa an toàn hệ thống và ổn định kinh tế vĩ mô.
Ba là để giải quyết nợ xấu, các NHTM cần phải thực hiện kiểm tra, đánh giá lại chất lượng tài sản và khả năng thu hồi nợ cũng như giá trị của nợ xấu cần giải quyết. Trên cơ sở đó tiến hành bán những khoản nợ xấu có tài sản đảm bảo cho VAMC - Công ty quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam được thành lập theo Quyết định số 843/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ ngày 31/5/2013. Trong thời gian tới, VAMC sẽ tiếp tục thực hiện mua nợ xấu bằng trái phiếu đặc biệt và triển khai thực hiện mua, bán nợ xấu với giá thị trường theo phương án được Ngân hàng Nhà nước chấp thuận. Bên cạnh việc mua nợ, VAMC cũng đã phối hợp với ngân hàng thực hiện việc thu hồi nợ, thanh toán trái phiếu đặc biệt cũng như cơ cấu lại nợ cho khách hàng. Mặt khác, các khoản nợ có tài sản đảm bảo nhưng không bán được, các ngân hàng sẽ tiến hành bằng cách thanh lý tài sản theo phương thức bán đấu giá tài sản trên thị trường. Cuối cùng, sau khi đã thanh lý tài sản đảm bảo nhưng vẫn không đủ để bù đắp nợ xấu thì sử dụng quỹ dự phòng rủi ro để xóa nợ. Ngoài ra, các ngân hàng cần chủ động tăng mức trích lập dự phòng các khoản nợ xấu, nợ quá hạn trên cơ sở mức rủi ro của từng khoản vay chứ không chỉ trên cơ sở nợ quá hạn và chấp nhận giảm lợi nhuận hoặc thua lỗ. Vì trên thực tế có các khoản vay mặc dù chưa đến hạn nhưng đã tiềm ẩn khả năng mất vốn rất cao. Việc làm này tuy làm giảm lợi nhuận nhưng sẽ giúp ngân hàng ứng phó kịp thời nếu có xảy ra biến cố và làm giảm số thuế thu nhập doanh nghiệp ngân hàng phải nộp. Bên
cạnh đó, để bù đắp tổn thất, ngân hàng có thể thực hiện chính sách lương và thưởng một cách hợp lý để chia sẻ khó khăn hiện tại.
Bốn là ngân hàng cần thực hiện những biện pháp phối hợp với doanh nghiệp để họ tiếp tục được vay vốn với lãi suất hợp lý nhằm góp phần giảm bớt chi phí hoạt động cũng như không phải chịu lãi suất phạt quá hạn để tránh áp lực tài chính trong giai đoạn khó khăn. Một cách xử lý khá phổ biến khác theo thông lệ thế giới là chuyển nợ quá hạn, nợ xấu thành cổ phần. Đồng thời chuyển vị thế của các ngân hàng đang là chủ nợ thành cổ đông lớn nắm đa số cổ phần nếu nhận thấy sau tái cấu trúc doanh nghiệp có khả năng tồn tại và phát triển. Nếu thực hiện thành công thì không những cứu được doanh nghiệp khỏi nguy cơ giải thể phá sản mà còn bảo toàn được nguồn vốn của ngân hàng. Ngoài ra các ngân hàng cần thực hiện giám sát chặt chẽ những khoản vay và tài sản đảm bảo trước, trong và sau khi cho vay để có biện pháp can thiệp kịp thời.
5.2.2. Về khả năng thanh khoản
Theo kết quả phân tích thực nghiệm ở chương 4 thì tính thanh khoản là một trong những yếu tố tác động và có mối quan hệ cùng chiều đến tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng TMCP tại Việt Nam. Kết quả thực nghiệm ủng hộ cho quan điểm nghiên cứu của Bourke (1989) cho rằng ngân hàng có tính thanh khoản cao sẽ giảm nguy cơ phá sản vì chúng có thể chịu được rủi ro tài chính xảy ra đồng thời giảm được chi phí vay vốn từ các nguồn vốn tài trợ bên ngoài khi cần thiết từ đó giúp nâng cao lợi nhuận của ngân hàng. Vì thế để nâng cao tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng TMCP tại Việt Nam tác giả sẽ đưa ra những giải pháp nhằm gia tăng khả năng thanh khoản. Cụ thể là
- Việc xây dựng quy chế quản trị rủi ro thanh khoản không chỉ dựa vào Thông tư 13/2010/TT-NHNN của Ngân hàng Nhà nước ngày 20/5/2010 quy định về các tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng mà còn phải chú trọng xác định mức dự trữ thanh khoản phù hợp với đặc điểm hoạt động của từng ngân hàng. Đặc biệt là hệ thống thông tin báo cáo phải khoa học, có cấu trúc tốt
nhằm đảm bảo thu thập được đầy đủ thông tin về tình hình cung cầu thanh khoản của ngân hàng.
- Các ngân hàng cần xây dựng cơ chế chuyển vốn nội bộ phù hợp tức ngoài việc tính bài toán chi phí - lợi nhuận mang lại khi mở các chi nhánh, phòng giao dịch, các ngân hàng phải tính đến việc luân chuyển vốn giữa chi nhánh, phòng giao dịch với hội sở chính như thế nào để đảm bảo tính thanh khoản của cả hệ thống với chi phí thấp nhất. Hiện nay các ngân hàng đã áp dụng hệ thống ngân hàng cốt lõi - core banking tương đối hiện đại. Tuy nhiên, trong mọi tình huống, việc luân chuyển vốn nội bộ phải gắn với hiệu quả kinh doanh của từng chi nhánh, phòng giao dịch và vốn được tập trung về hội sở chính, có như vậy mới dự báo, đo lường được nhu cầu thanh khoản một cách chính xác và từ đó có chiến lược quản trị thanh khoản phù hợp.
- Gắn rủi ro thanh khoản với rủi ro thị trường tức trong hoạch định chiến lược cũng như quản trị, điều hành thanh khoản hàng ngày cần phân tích, đánh giá rủi ro thanh khoản với rủi ro thị trường, có như vậy chiến lược quản trị đề ra mới có tính khả thi và hiệu quả cao. Theo định nghĩa, rủi ro thị trường là những thay đổi về giá trị thị trường của tài sản và các khoản nợ, ảnh hưởng đến thu nhập và vốn của ngân hàng. Trên thực tế, dạng rủi ro thị trường điển hình nhất đối với nhiều ngân hàng là rủi ro lãi suất. Một thay đổi đột ngột về lãi suất có thể tác động đến hoạt động kinh doanh ngân hàng dưới nhiều cách thức khác nhau do đó đánh giá, quản lý rủi ro thị trường là một công việc khó khăn và rất phức tạp.
- Thiết lập mô hình tổ chức phù hợp nhằm tăng khả năng quản lý rủi ro thanh khoản một cách tốt nhất. Nhìn chung các NHTM hiện nay đều có mô hình bộ máy tổ chức tương tự nhau là hội sở chính và các chi nhánh ở tỉnh, thành phố. Với mô hình đó, khi có nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi chi nhánh sẽ gửi hội sở chính và ngược lại khi có nhu cầu chi nhánh sẽ vay lại hội sở chính. Thực tế, chức năng này thường giao cho phòng kế hoạch thực hiện nên đôi khi việc tính toán chưa kịp thời, chính xác gây ra tình trạng dư thừa hoặc thiếu hụt nguồn vốn không đáng có. Bên cạnh đó, chức năng quản lý rủi ro cũng bị phân tán do mỗi phòng, ban chỉ thực hiện
quản lý rủi ro thuộc nghiệp vụ của phòng mình. Do vậy, cần tập trung chức năng quản lý rủi ro về hội sở chính và điều này đòi hỏi các ngân hàng phải thiết lập được mô hình tổ chức phù hợp với đặc điểm, phạm vi, quy mô hoạt động của ngân hàng mình.
- Xây dựng đội ngũ nhân viên có trình độ, năng lực và đạo đức nghề nghiệp do phát triển nguồn nhân lực bao giờ cũng là mục tiêu hàng đầu của mọi tổ chức, doanh nghiệp. Việc phát triển đội ngũ nhân viên quản lý nói chung và quản lý thanh khoản nói riêng là cần thiết đối với bất kỳ NHTM nào. Chính bộ phận này sẽ tham mưu đắc lực cho cấp lãnh đạo ngân hàng trong việc đưa ra các quyết định đúng đắn, kịp thời nhằm ngăn chặn, khắc phục những rủi ro phát sinh và hướng hoạt động kinh doanh đến những thành công mới. Do vậy, ngân hàng cần có kế hoạch tuyển dụng, đào tạo, sử dụng nhân viên một cách khoa học, minh bạch và bình đẳng. Đặt nhân viên vào những vị trí thích hợp với khả năng của họ là một khâu quan trọng trong công tác cán bộ, nhằm đảm bảo rằng chính đội ngũ nhân viên này sẽ là những người góp phần vào thành công chung của ngân hàng. Các ngân hàng cũng nên xây dựng văn hoá doanh nghiệp cho ngân hàng mình. Một môi trường làm việc cởi mở, thân thiện và mang bản sắc văn hoá riêng sẽ là động lực thúc đẩy đội ngũ nhân viên nhiệt tình cống hiến, sáng tạo và luôn trung thành với ngôi nhà thứ hai của mình.
5.2.3. Về dư nợ cho vay khách hàng
Kết quả phân tích thực nghiệm ở chương 4 đã cho thấy rằng dư nợ cho vay là một trong những yếu tố tác động và có mối quan hệ cùng chiều đến tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng TMCP tại Việt Nam. Điều này nghĩa là thực tế hiện nay bên cạnh việc tăng trưởng tín dụng, các ngân hàng đã thực hiện công tác đánh giá khách hàng và quản lý rủi ro khá tốt. Vì thế để nâng cao tỷ suất sinh lợi của các ngân hàng TMCP tại Việt Nam tác giả sẽ đưa ra những giải pháp nhằm gia tăng dư nợ cho vay đối với khách hàng.
- Ngân hàng cần tìm điểm cân bằng tức một chuẩn mực cho vay phù hợp giữa ngân hàng và doanh nghiệp. Việc ngân hàng hạ chuẩn tín dụng để cho vay mô