Các yếu tố tác động đến hành vi cho vay của các ngân hàng thương mại Việt Nam - 2

DANH MỤC HÌNH VẼ

Hình 3.1 Sơ đồ nghiên cứu đề xuất 16


TÓM TẮT

Nghiên cứu này nhằm mục đích kiểm tra và xác nhận các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi cho vay của các ngân hàng thương mại tại Việt Nam. Với biến phụ thuộc là tổng cho vay của các ngân hàng (Vl) đại diện cho hành vi cho vay của các ngân hàng thương mại và các biến độc lập là tổng huy động của các ngân hàng thương mại (Vd), lãi suất cho vay (Ir), tỷ lệ dự trữ bắt buộc (Rr) và tổng sản phẩm quốc nội (GDP), giả thuyết được đưa ra là có mối quan hệ giữa biến phụ thuộc và các biết độc lập. Sử dụng phương pháp đồng liên kết Johansen, mô hình véc tơ hiệu chỉnh sai số VECM với dữ liệu quý trong giai đoạn 2003 – 2012, kết quả hồi quy cho thấy, tổng huy động có ảnh hưởng lớn nhất đến hành vi cho vay của các ngân hàng với mối quan hệ đồng biến phù hợp với lý thuyết. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc có mối quan hệ nghịch biến như lý thuyết nhưng GDP lại có kết quả quan hệ nghịch biến không như dự đoán của mô hình lý thuyết. Bên cạnh đó, lãi suất cho vay lại không có mối quan hệ với hành vi cho vay của các NHTM Việt Nam.

Từ khóa: ngân hàng, tín dụng, hành vi cho vay, mô hình VECM.


1. GIỚI THIỆU

Hoạt động cho vay là hoạt động kinh doanh truyền thống của các ngân hàng thương mại. Trong hoạt động này, ngân hàng thương mại cung cấp các khoản vay ngắn, trung và dài hạn cho các cá nhân, tổ chức cho phép họ tham gia vào các hoạt động đầu tư và phát triển, góp phần hỗ trợ cho tăng trưởng của họ nói riêng và cho tăng trưởng cho nền kinh tế của một quốc gia nói chung. Xuất phát từ tầm quan trọng của hoạt động này đối với sự phát triển kinh tế xã hội đất nước mà trong chương trình phân bổ nguồn lực của mình, các quốc gia không thể không quan tâm đến kênh tín dụng này. Và ngân hàng thương mại luôn đóng vai trò là tổ chức phân bổ nguồn tài chính quan trọng nhất trong các chương trình này.

Tuy nhiên, ngân hàng thương mại cũng là một tổ chức kinh doanh nên hoạt động của họ không nằm ngoài mục tiêu vì lợi nhuận. Cho vay của ngân hàng đối với khách hàng dựa trên những nguyên tắc đánh giá khả năng sinh lời của dự án cho vay, khả năng thanh toán và trả nợ của khách hàng. Ngoài ra, còn có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến quyết định cho vay của ngân hàng như các biến vĩ mô: lãi suất, cung tiền, tồng sản phẩm quốc nội, tỷ giá hối đoái, … ; các yếu tố thuộc về đặc điểm của ngân hàng như: nguồn vốn, tính thanh khoản, chiến lược kinh doanh của ngân hàng, chất lượng nhân sự, năng lực điều hành, … Bên cạnh đó, các yếu tố thuộc về mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng cũng được đề cập đến.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 121 trang tài liệu này.

Sự ra đời của ngân hàng thương mại trên thế giới gắn liền với sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa. Và hoạt động cho vay ngân hàng xuất phát từ nhu cầu vay vốn của các thương gia mở rộng sản xuất kinh doanh trong cuộc cách mạng công nghiệp. Đến nay, đã trải qua hàng trăm năm.


Các yếu tố tác động đến hành vi cho vay của các ngân hàng thương mại Việt Nam - 2

Đối với nền kinh tế Việt Nam, ngân hàng thương mại ra đời khá muộn và có nhiều khác biệt. Ngân hàng thương mại ở Việt Nam ra đời theo tinh thần của Pháp lệnh Ngân hàng nhà nước và Pháp lệnh các tổ chức tín dụng năm 1990, sau cuộc cải cách mạnh mẽ đầu tiên trong hệ thống tài chính – ngân hàng Việt Nam năm 1988. Trước đó, hệ thống ngân hàng là hệ thống đơn cấp với NHNN thực hiện chức năng của cả NHTM và NHNN. Hai ngân hàng chuyên doanh là Ngân hàng ngoại thương Việt Nam (Vietcombank) và Ngân hàng đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) thuộc sở hữu nhà nước và nhà nước trực tiếp kiểm soát hoạt động. Toàn bộ hệ thống ngân hàng là công cụ để thực hiện các chính sách nhà nước, đáp ứng nhu cầu tài chính của ngân sách và các DNNN. Hoạt động cho vay ngân hàng là tín dụng chỉ định với mức lãi suất danh nghĩa thấp.

Cải cách hệ thống tài chính năm 1988 cùng với sự ra đời của ngân hàng thương mại năm 1990 đánh dấu một chuyển biến lớn trong lĩnh vực tài chính. Tuy nhiên hoạt động cho vay nói riêng và các hoạt động ngân hàng khác nói chung vẫn chưa có nhiều tiến triển đáng kể. NHNN vẫn kiểm soát chặt chẽ hệ thống ngân hàng thông qua công cụ lãi suất và nhiều biện pháp khác. Các chính sách của NHNN giúp các NHTM có thể duy trì một tỷ lệ lợi nhuận nhưng không có lợi cho người gửi tiền khiến cho huy động tiền gửi tăng trưởng chậm và tỷ lệ tiền mặt cao trong cung tiền. Cùng với đó là tín dụng chỉ định nhằm đảm bảo cho các khu vực ưu tiên của chính phủ nhận được vốn vay với lãi suất vừa phải. Các ngân hàng vì vậy hoạt động không theo cơ chế thị trường, không có cạnh tranh, yếu kém trong công tác quản trị. Trải qua một khoảng thời gian dài của quá trình tự do hóa lãi suất trong những năm cuối của thập nhiên 90, cùng với những tác động của cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, những quy định về lãi suất được nới lỏng dần dần bước đầu tạo được cơ chế thỏa thuận lãi suất cho vay với khách hàng. Và đến năm


2002, những ràng buộc về lãi suất tại Việt Nam được gở bỏ hoàn toàn. Hoạt động cho vay của các ngân hàng linh hoạt hơn và theo cơ chế thị trường.

Hoạt động cho vay dựa trên cơ chế thị trường và những nguyên tắc tín dụng từ năm 2002 đã có những đóng góp rất lớn cho quá trình phát triển kinh tế của đất nước. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, tình hình nợ xấu gia tăng cao trong hệ thống ngân hàng, tình trạng mất thanh khoản của một số ngân hàng và hoạt động kinh doanh kém hiệu quả sau một giai đoạn tăng trưởng nóng của nền kinh tế nói chung và ngành ngân hàng nói riêng, cùng với tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu vẫn chưa có hồi kết đã dẫn đến những sự can thiệp trở lại của chính phủ vào hệ thống ngân hàng. Chương trình tái cấu trúc hệ thống ngân hàng đã và đang trong quá trình thực hiện. Đặc biệt, vấn đề nợ xấu của hệ thống ngân hàng đang là một chủ đề nóng bỏng nhất. Xuất phát từ thực tiễn này, những nghiên cứu về lĩnh vực ngân hàng và hoạt động cho vay nhằm tạo cơ sở thực tiễn cho quá trình tái cấu trúc và hướng dẫn hoạt động cho vay của ngân hàng trở nên cấp thiết.

Nghiên cứu này xác định rõ vấn đề cần nghiên cứu là hành vi cho vay của các NHTM với biến đại diện cho hành vi cho vay là biến tổng cho vay (Vl). Sử dụng phương pháp đồng tích hợp Johansen và mô hình véc tơ tự hiệu chỉnh sai số VECM cho chuỗi dữ liệu quý giai đoạn 2003 – 2012, nghiên cứu trả lời các câu hỏi sau:

Thứ nhất, có tồn tại mối quan hệ giữa các biến tổng huy động, lại suất cho vay, tỷ lệ dự trữ bắt buộc và tổng sản phẩm quốc nội với tổng cho vay của ngân hàng thương mại hay không?

Thứ hai, nếu có tồn tại thì mối quan hệ này như thế nào?


Mục đích của nghiên cứu nhằm kiểm tra và xác nhận các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi cho vay của các ngân hàng thương mại Việt Nam nhằm cung cấp cái nhìn sâu sắc và thực tiễn về hành vi cho vay ngân hàng..

Kết quả nghiên cứu cho thấy, các biến tổng huy động, tỷ lệ dự trữ bắt buộc và GDP đều có mối quan hệ ảnh hưởng đến hành vi cho vay của NHTM. Trong đó, tổng huy động có ảnh hưởng lớn nhất phù hợp với lý thuyết về kênh tín dụng. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc có mối quan hệ nghịch biến như kỳ vọng và có ý nghĩa thống kê. Lãi suất cho vay, tuy có ảnh hưởng nghịch biến như mô hình lý thuyết kỳ vọng nhưng kết quả không có giá trị thống kê dẫn đến kết luận không có mối quan hệ giữa lãi suất cho vay và hành vi cho vay của các NHTM. Bên cạnh đó, một kết quả đáng lưu ý là mối quan hệ nghịch biến giữa GDP và tổng cho vay, trái với những kỳ vọng của lý thuyết và những nghiên cứu trước đây trên thế giới.

Phần còn lại của nghiên cứu được trình bày như sau: phần tiếp theo trình bày tổng quan những nghiên cứu trước đây về hành vi cho vay của các ngân hàng thương mại trên thế giới và Việt Nam. Phần ba trình bày phương pháp nghiên cứu và mô tả dữ liệu được sử dụng trong nghiên cứu. Phần bốn mô tả kết quả nghiên cứu và cuối cùng là phần năm: kết luận.


2. TỔNG QUAN NHỮNG NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY

2.1 Cơ sở lý thuyết

2.1.1 Lý thuyết định giá nợ

Theo Modigliani và Miller (1958), nguồn ngân sách (funds) là sẵn có cho những dự án có NPV dương và giá trị của doanh nghiệp độc lập với cấu trúc tài chính của nó. Quyết định tài trợ nội bộ hay tài trợ từ bên ngoài là như nhau trong một thế giới với thị trường vốn hiệu quả và không có bất cân xứng thông tin, các loại chi phí và thuế. Lập luận của MM gây nhiều tranh cãi và bắt nguồn từ đó phát sinh rất nhiều nghiên cứu cho cuộc tranh luận về thế giới thực. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh thế giới thực là không hiệu quả. Doanh nghiệp có rất nhiều động cơ để sử dụng tài trợ từ bên ngoài. Do vậy, việc xác định cấu trúc vốn là rất quan trọng đối với các công ty cũng như ngân hàng. Bên cạnh đó, cho vay của ngân hàng cũng không đơn giản chỉ dựa trên việc đánh giá NPV của dự án và nguồn vốn (funds) không phải lúc nào cũng sẵn có cho DN.

Trong lĩnh vực tài chính, Stiglitz và Weiss (1981) đã hàm ý thị trường tín dụng là không hiệu quả bởi việc bất cân xứng thông tin. Ông đưa ra lý thuyết định giá nợ (loan pricing theory) rằng trong việc định giá lãi suất cho vay, các NH không thể đặt một mức lãi suất cao đề tìm kiếm lợi nhuận mà nên xem xét vấn đề lựa chọn ngược (adverse selection problems) vì rất khó để NH có thể đánh giá chính xác khách hàng.

2.1.2 Lý thuyết kênh tín dụng ngân hàng

Bernanke và Blinder (1988); Friedman (1991); Van den Heuvel (2003) trình bày lý thuyết về kênh tín dụng ngân hàng (bank lending channel) dựa trên sự không hoàn hảo của thị trường tín dụng, nhấn mạnh vai trò của tỷ lệ dự trữ bắt buộc trong hoạt động ngân hàng.


Theo như lý thuyết về kênh tín dụng NH, một sự thắt chặt tiền tệ có tác động đến cho vay ngân hàng bởi vì sự sụt giảm trong tiền gửi không thể được bù đắp một cách hoàn toàn bằng các hình thức huy động “không dự trữ” khác. Do vậy, điều kiện cần thiết cho kênh tín dụng hoạt động là thị trường tài sản “không dự trữ” hoạt động tốt. Ngược lại, nếu NH có khả năng gia tăng không giới hạn chứng chỉ tiền gửi và trái phiếu, cái mà không có yêu cầu tỷ lệ dự trữ, kênh tín dụng NH sẽ không hiệu quả.

Trái với lập luận trên, Kashyrap và Stein (1995,2000) và Stein (1998) tranh cãi rằng thị trường nợ là không hoàn hảo. Vì “tài sản không dự trữ” là không được bảo hiểm và tồn tại vấn đề bất cân xứng thông tin về giá trị tài sản của NH nên các nhà đầu tư sẽ yêu cầu một phần bù rủi ro. Trong trường hợp này, vốn NH đóng một vai trò quan trọng bởi vì nó ảnh hưởng tới xếp hạng NH và cung cấp cho nhà đầu tư một sự “đảm bảo” về tín dụng (creditworthiness). Vì vậy, chi phí cho nguồn huy động “không dự trữ” này (ví dụ như trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi) sẽ cao hơn đối với những NH có nguồn vốn nhỏ. Những NH có nguồn vốn nhỏ sẽ nhạy cảm hơn với vấn đề bất cân xứng thông tin và có ít khả năng thiết lập quan hệ tín dụng (Kishan và Opiela (2000)).

2.1.3 Lý thuyết kênh vốn ngân hàng

Thakor (1996); Bolton và Freixas (2001) và Van den Heuvel (2001a) trình bày lý thuyết về kênh vốn ngân hàng (bank capital channel) tranh luận rằng ngân hàng sẽ giảm cho vay bởi những quy định đảm bảo an toàn vốn.

Lý thuyết kênh vốn ngân hàng dựa trên 3 giả thuyết. Thứ nhất,thị trường tín dụng là không hoàn hảo: ngân hàng không thể dễ dàng huy động vốn bởi sự hiện diện của chi phí đại diện và những bất lợi của thuế (Myers và Majluf(1984), Stein (1998), Calomiris và Hubbard (1995), Cornett và Tehranian (1994)). Thứ hai, ngân hàng đối mặt với rủi ro lãi suất vì tài sản

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 10/12/2023