Một Số Khái Niệm Dùng Trong Nghiên Cứu Này.


Mua sắm

An toàn & An ninh

Cơ sở hạ tầng & khả năng tiếp

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 152 trang tài liệu này.

Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định quay trở lại điểm đến thành phố Hồ Chí Minh của khách du lịch quốc tế - 4


Văn hóa

Các hoạt động vui chơi giải trí

Cảm nhận về chất lượng dịch vụ

Sự hài lòng điểm đến của du khách

Hình 5: Mô hình “Ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp về sự hài lòng điểm đến của khách du lịch quốc tế” - nghiên cứu tại Di sản thiên nhiên thế giới Vịnh Hạ Long, Việt Nam

(Khuong, An và Mai Uyen, 2016)

Từ kết quả phân tích trên, có thể kết luận rằng các hoạt động vui chơi giải trí là yếu tố quan trọng nhất ảnh hưởng đến sự hài lòng điểm đến của khách du lịch đối với Vịnh Hạ Long, tiếp theo là cơ sở hạ tầng và khả năng tiếp cận, an toàn và an ninh, và yếu tố văn hóa. Mặt khác, các yếu tố văn hóa tốt hơn yếu tố giải trí, cơ sở hạ tầng, an toàn và an ninh, sự hài lòng của du khách sẽ đạt được cao hơn. Những tác động tích cực của bốn yếu tố này cũng đã được chứng minh trong một số nghiên cứu trước đây như trong (Wang and Qu, 2006; Chi and Qu, 2008; Prayag, 2008). Tuy nhiên, kết quả cũng chỉ ra rằng việc mua sắm và khả năng tiếp cận không có tác động trực tiếp đến sự hài lòng của khách du lịch đối với Vịnh Hạ Long. Điểm này là khác nhau với các nghiên cứu trước đây. Như đã chỉ trước đó trong bài viết này, hầu hết những người được hỏi là khách còn trẻ và lần đầu tiên đến với Vịnh Hạ Long, những điều quan trọng nhất là họ muốn khám phá một điểm đến thật mới mẻ và trải nghiệm những điều mới. Đó là lý do tại sao, khả năng tiếp cận không phải là một thách thức lớn đối với họ, và mua sắm không phải là mục đích chính của họ khi họ đến vịnh Hạ long. Do đó, các nghiên cứu cho rằng để nâng cao sự hài lòng của


khách du lịch nước ngoài hướng về Vịnh Hạ Long, các nhà quản lý du lịch cần phải có một sự chú ý chính xác trong việc thúc đẩy các hoạt động giải trí và vui chơi giải trí trong Vịnh Hạ Long như xây dựng một tổ hợp vui chơi giải trí với các sòng bạc, quán bar chất lượng cao hoặc các câu lạc bộ.

Nghiên cứu của Khuong, An và Mai Uyen, (2016) cũng không tránh khỏi một số hạn chế. Hạn chế đầu tiên là bị giới hạn về thời gian, ngân sách của nhà nghiên cứu, các câu hỏi được thiết kế chỉ bằng tiếng Anh. Tuy nhiên, nhiều du khách nước ngoài đến vịnh Hạ Long là từ các nước mà tiếng Anh không phải là ngôn ngữ của họ như Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, vv, kết quả có thể là một sự khác biệt chút ít so với các ý kiến của khách du lịch đến từ các nước nói tiếng Anh. Một hạn chế lớn của nghiên cứu là các cuộc điều tra đã được tiến hành trong điều kiện không thuận lợi; thời tiết thực sự xấu với mưa và sương mù, nhiệt độ lạnh và không phải là mùa thực sự tốt cho việc đi du lịch vì nhiều hoạt động bị đình trệ. Như vậy, kết quả của nghiên cứu này chỉ đúng trong thời gian nó đã được tiến hành, và không thể được áp dụng cho các mùa khác trong năm, đặc biệt là trong mùa hè - mùa du lịch tại Vịnh Hạ Long. Bên cạnh đó, mặc dù môi trường tự nhiên và các nguồn lực là một yếu tố rất quan trọng liên quan đến Vịnh Hạ Long, vì thời tiết xấu, đánh giá của khách du lịch trên yếu tố này dường như là thiên vị và không đáng tin cậy. Theo kết quả, nó đã được loại trừ trong phân tích nhân tố khám phá bằng SPSS. Điều này tạo ra một lỗ hổng lớn trong nghiên cứu này.

Dựa trên những hạn chế của nghiên cứu này đề cập ở trên, một số đề nghị đưa ra cho các hướng nghiên cứu tiếp theo. Thứ nhất, các nghiên cứu tiếp theo nên có nhiều thời gian và ngân sách để có cỡ mẫu thích hợp hơn. Các câu hỏi cần được thiết kế ít nhất hai ngôn ngữ, đó làtiếng anh và tiếng trung quốc để có thể thu thập được dữ liệu khả thi hơn,và nên thực hiện các cuộc khảo sát, cuộc điều tra nên được tiến hành trong mùa thuận lợi cho du lịch. Ví dụ, ở vịnh Hạ Long, thời gian từ tháng năm đến tháng mười là thời điểm thuận lợi nhất cuộc khảo sát mà cần phải được tiến hành. Tuy nhiên, do hạn chế thời gian, cuộc điều tra phải được hoàn thành theo


đúng tiến độ; nó đã được thực hiện trong một điều kiện xấu, và do đó kéo theo một số hạn chế đối với việc nghiên cứu.

1.7 Ý nghĩa thực tiễn của đề tài:

Thông qua đề tài nghiên cứu , những người làm công tác du lịch,những công ty du lịch quốc tế và nội địa, các nhà uản lý ngành du lịch khách sạn ,nhà hàng xác định rõ những yếu tố tác động đến ý định quay trở lại thành phố Hồ Chí Minh của khách du lịch quốc tế và mức độ của từng yếu tố đó.từ góc nhìn đó định hướng những chiến lược,chính sách cải thiện các sản phẩm, dịch vụ du lịch phù hợp nhằm tác động đúng vào các yếu tố du khách quan tâm đối với du lịch ở TP.HCM.Ngoài ra, kết qủa của nghiên cứu hỗ trợ khuyến nghị cho các cơ quan quản lý nhà nước, các nhà hoạch định chính sách về du lịch thiết kế chiến lược marketing phù hợp cho ngành du lịch nhằm thu hút them số lượng du khách quay trở lại TP.HCM du lịch nhiều lần, hạn chế tình trạng du khách “một đi không trở lại” cũng như quảng bá hình ảnh điểm đến TP.HCM nhiều hơn với cộng đồng quốc tế.Trong ngắn hạn, các kết quả của nghiên cứu này cũng là một tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu và trong các lĩnh vực hoặc ngành có liên quan.

1.8 Kết cấu đề tài

Đề tài nghiên cứu có bố cục như sau: Chương 1: Tổng quan về nghiên cứu Chương 2: Lý thuyết và mô hình nghiên cứu Chương 3: Phương pháp nghiên cứu Chương 4: Kết quả nghiên cứu

Chương 5: Kết luận và kiến nghị


Tóm tắt chương 1

Trong chương này nói về tổng quan về nghiên cứu, trình bày các nội dung chính của đề tài như: Lý do chọn đề tài, mục tiêu nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu, đối tượng nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, tổng quan tình hình các nghiên cứu trước đây và ý nghĩa của đề tài.


.


CHƯƠNG 2

CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU

Chương 2 sẽ mở đầu nội dung nghiên cứu thông qua việc trình bày cơ sở lý luận làm nền tảng cho cuộc nghiên cứu cũng như lý thuyết Các khái niệm và cách thức để đo lường chúng được thể hiện trong phần này. Cốt lõi của chương này chứa các phần sau: định nghĩa,một số lý thuyết về ý định quay lại của du khách, Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định quay trở lại của du khách, các điểm tham quan văn hóa/lịch sử/nghệ thuật, Ẩm thực địa phương, Giá cả, An ninh và an toàn, cơ sở hạ tầng, Môi trường tự nhiên, Các hoạt động vui chơi giải trí, Hình ảnh điểm đến.Từ đó xây dựng thang đo và các giả thuyết nghiên cứu về mô hình nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến ý định quay trở lại điểm đến TP.HCM của khách du lịch quốc tế.

2.1 Một số khái niệm dùng trong nghiên cứu này.

Ngày nay du lịch được xem như một ngành công nghiệp “không khói “ siêu lợi nhuận,xuất khẩu sản phâm tại chỗ và là ngành kinh tế hàng đầu của rất nhiều quốc gia.Hoạt động du lịch mang tính chất của một hoạt động kinh tế lại mang đặc điểm của lĩnh vực xã hội học. Trên góc độ này, định nghĩa về du lịch cua Michael Coltman là phù hợp nhất:” Du lịch là hoạt động kết hợp và tương tác giữa bốn yếu tố trong quá trình phục vụ du khách bao gồm: Du khách, nhà cung cấp dịch vụ du lịch, cư dân sở tại và chính quyền nơi đón khách du lịch”.

Khách du lịch là” những người đi ra khỏi môi trường sống thường xuyên của mình để đến một nơi khác trong một thời gian ít hơn 12 tháng liên tục với mục đích chính của chuyến đi là thăm quan, nghỉ ngơi, vui chơi giải trí hay các mục đích khác ngoài việc tiến hành các hoạt động để đem lại thu nhập và kiếm sống ở nơi đến” (Luật du lịch, 2005).

Khách du lịch quốc tế đến Việt Nam là những người đi ra khỏi môi trường sống thường xuyên của một nước đang thường trú đến Việt Nam trong thời gian ít hơn 12 tháng với mục đích của chuyến đi không phải để tiến hành các hoạt động nhằm đem lại thu nhập và kiếm sống ở Việt Nam (Luật du lịch, 2005). Dưới góc độ


của đề tài nghiên cứu này, khái niệm khách du lịch được hiểu là khách du lịch quốc tế đến (Inbound tourist)

Khách du lịch quốc tế đến (Inbound tourist): là những người từ nước ngoài đến du lịch một quốc gia.

Khái niệm người tiêu dùng du lịch: Là người mua sản phẩm du lịch nhằm thỏa mãn nhu cầu và mong muốn cá nhân. Họ là người cuối cùng tiêu dùng sản phẩm du lịch do quá trình sản xuất tạo ra. Người tiêu dùng du lịch có thể là một cá nhân, hộ gia đình hoặc một nhóm người (tập thể).

Điểm đến du lịch: Tổ chức Du lịch Thế giới (UNWTO) năm 2007 đã đưa ra định nghĩa “Điểm đến du lịch là vùng không gian mà khách du lịch ở lại ít nhất một đêm, bao gồm các sản phẩm du lịch, các dịch vụ cung cấp, các tài nguyên du lịch thu hút khách, có ranh giới hành chính để quản lý và có sự nhận diện về hình ảnh để xác định khả năng cạnh tranh trên thị trường”.

2.2 Cơ sở lý thuyết

2.2.1 Ý định quay trở lại của du khách

Khái niệm ý định quay trở lại (Return Intention) có nguồn gốc từ lý thuyết hành vi dự định (Theory of Planned Behavior) và được định nghĩa là “một hành vi dự định/kiến trong tương lai” (Fishbein và Ajzen, 1975; Swan, 1981). Nó trở thành thước đo và công cụ quan trọng để hiểu và dự đoán các hành vi xã hội (Ajzen, 1991; Fishbein và Manfredo, 1992). Hành vi dự định luôn kèm theo hành vi quan sát được (Baloglu, 2000) và một khi dự định được hình thành thì hành vi sẽ được thể hiện sau đó (Kuhl và Bechmann, 1985).

Các điểm đến du lịch luôn khuyến khích các học giả đo lường ý định quay trở lại của du khách với nhiều lý do khác nhau (Aasaker, Esposito Vinzi, and O’Connor 2011; Yun et al. 2007), trong đó có niềm tin rằng ý định quay trở lại có thể dự đoán được khuynh hướng quay trở lại một điểm đến thực tế của du khách (Hong et al. 2009). Niềm tin này được khẳng định trong lý thuyến hành vi dự định (Theory of Planned Behavior – TPB) và/hoặc trong lý thuyết hành động hợp lý (Theory of Reasoned Action – TRA), những lý thuyết này cho rằng có mối quan hệ


giữa chất lượng dịch vụ, sự hài lòng, và các dự định hành vi tương lai (Brencic and Dmitrovic 2010; Chi and Qu 2008; March and Woodside 2005; Yoon and Uysal 2005). Prayag (2009) cho rằng các nghiên cứu hành vi dự định trong du lịch đã đạt được sự đồng thuận cao rằng khi du khách hài lòng, họ sẽ quay lại và sẽ giới thiệu với những người khác về trải nghiệm thú vị của họ. Sutton (1998) đã tán thành quan điểm kết luận mang tính qui luật này và cho rằng nếu không có ý định người ta sẽ không hành động gì cả.

Trong lĩnh vực giải trí và du lịch, ý định quay trở lại là sự xem xét của du khách về khả năng quay lại tham quan một nơi vui chơi giải trí hay một điểm đến du lịch. Tuy nhiên, điểm đến du lịch được xem là một sản phẩm đặc biệt bao gồm các tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn theo Kim (2008) nên ý định quay trở lại của du khách tới một vùng đất xa lạ một lần nữa thường thấp hơn việc sử dụng lại sản phẩm thông thường, ngay cả khi điểm du lịch đó thỏa mãn mọi nhu cầu và sự mong đợi của du khách. Khách du lịch có thể chọn những nơi mà họ chưa từng đến để tìm kiếm những trải nghiệm mới (McDougall và Munro, 1994).

Việc du khách quay trở lại không chỉ tạo ra nguồn thu, lợi nhuận cho các điểm đến, gia tăng thị phần, và tạo ra sự truyền miệng tích cực mà còn giảm thiểu các chi phí cho quảng bá và vận hành điểm đến (Bowen và Chen, 2001; Vuuren và Lombard, và Tonder, 2012). Vì vậy, các nhà quản lý điểm đến du lịch cần quan tâm đến ý định quay trở lại của du khách là một trong những vấn đề cơ bản cần nghiên cứu làm rõ (Pratminingsih, Rudatin, và Rimenta, 2014), làm nền tảng cho việc phát triển các chiến lược quản lý và quảng bá một cách hiệu quả, đồng thời tạo sự hấp dẫn đối với du khách (Hui et al., 2007; Lau and McKercher, 2004; Oppermann, 1997; Petrick, 2004).

Theo Oppermann (2000), việc quay lại tham quan của khách được xem là điều mơ ước cho những người làm công tác quảng bá và phân tích du lịch. Các lý do bao gồm: 1) chi phí quảng bá tiếp thị đối với các du khách quay lại luôn thấp hơn so với khách mới đến lần đầu, 2) khách quay lại đồng nghĩa với sự hài lòng của khách là tích cực, 3) khả năng quay lại tỷ lệ thuận với thái độ tích cực của du khách.


Đối khách du lịch, sự thư giãn thoải mái và sự quen thuộc được xem là động lực mạnh nhất để họ quay lại một điểm đến (Gitelson và Crompton, 1984; Hughes và Morrison-Saunders, 2002). Khách quay lại cũng ở lại lâu hơn, chi tiêu nhiều hơn nhưng lại tham quan số lượng các điểm du lịch ít hơn (Lau và McKercher, 2004; Oppermann, 1997). Cho tới nay, nhiều điểm đến du lịch dựa chủ yếu vào lượng khách quay lại thế nhưng vẫn còn ít những nghiên cứu về ý định quay trở lại và các yếu tố dẫn đến ý định quay trở lại (e.g. Anwar và Sohail, 2004; Fallon và Schofield, 2004; Hughes và Morrison-Saunders, 2002; Kemperman et al., 2003; Shanka và Taylor, 2004) với một số lý do. Thứ nhất, nghiên cứu mới chỉ tập trung nhiều về ý định tiếp tục mua các sản phẩm hơn là với dịch vụ (Kozak, 2001). Ý định mua lại sản phẩm hay nhãn hiệu được nghiên cứu kỹ trong lĩnh vực hành vi người tiêu dùng (Gitelson và Crompton, 1984). Việc đo lường ý định quay lại một điểm đến với sự tiêu dùng không thường xuyên và có tính mùa vụ cũng là một trở ngại và khách du lịch luôn thích tìm những điểm đến mới lạ hơn (Bigne et al., 2001). Thứ hai, hướng nghiên cứu chính trong lĩnh vực du lịch lại tập trung vào sự hài lòng và các yếu tố dẫn đến sự hài lòng và ý định quay trở lại chỉ được xem là kết quả của sự hài lòng (Bigne et al., 2001). Thứ ba, các nghiên cứu về các yếu tố dẫn đến việc quay trở lại bị trở ngại trong việc đo lường khái niệm này. Ví dụ, Um và cộng sự (2006) đã sử dụng thang đo một biến đơn để đo lường khái niệm thay vì nên sử dụng thang đo đa biến.

Khái niệm tiếp tục mua (repurchase) được định nghĩa là quyết định của khách hàng tham gia vào hoạt động tương lai với nhà cung cấp dịch vụ (Hume et al., 2007). Vì vậy, biến nghiên cứu này được xem là kết quả của sự hài lòng của khách hàng (Aron, 2006). Trong nghiên cứu này, khái niệm ý định quay trở lại được xem là khái niệm đa biến và đo lường thông qua ba yếu tố; 1) “ý định quay trở lại điểm đến du lịch” (Chen and Tsai, 2007; Khương và Trinh, 2015), 2) “sẽ sử dụng sản phẩm và dịch vụ nhiều hơn tại điểm đến trong tương lai” (Oppermann, 2000; Anwar và Sohail, 2004; Fallon và Schofield, 2004; Lau và McKercher, 2004; Khương và

Xem toàn bộ nội dung bài viết ᛨ

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 12/09/2023