Khách du lịch Trung Quốc, mặc dù có số lượng chỉ tiêu không cao, đã trở thành nguồn khách đứng đầu trong cơ cấu khách du lịch quốc tế ở Quảng Ninh.
Điều đáng chú ý là khách du lịch tàu biển đến Quảng Ninh tăng nhanh, Năm 2001 lượng khách này khoảng 77,604 lượt khách trên 325 số chuyến tàu biển, trong đó 34,949 lượt khách là khách tàu tiếp nhận của 33 chuyến tàu biển, và 42,655 lượt do khách tự tổ chức trên 292 số chuyến tàu biển. Thì đến năm 2006, lượng khách này đã lên tới con số 119331 lượt khách trên 265 số chuyến tàu biển, trong đó 11,534 lượt khách là khách tàu tiếp nhận của 37 chuyến tàu biển, và 107,797 lượt do khách tự tổ chức trên 229 số chuyến tàu biển. Con số đó cho ta thấy cơ cấu khách du lịch đi bằng tàu biển đã có sự thay đổi, chuyển biến giữa khách tàu tiếp nhận và khách tự tổ chức chuyến tàu biển.
Bảng 3: Tổng số lượt khách tàu biển đến Quảng Ninh
2001 | 2002 | 2003 | 2004 | 2005 | 2006 | 2007 | 2008 | |
Khách tàu biển | 77,604 | 128,418 | 70,413 | 33,432 | 5,091 | 119,331 | - | - |
Số chuyến | 325 | 376 | 161 | 157 | 26 | 265 | - | - |
Khách tàu tiếp nhận | 34,949 | 69,801 | 31,922 | 6,080 | 1,960 | 11,534 | - | - |
Số chuyến | 33 | 61 | 37 | 13 | 10 | 37 | - | - |
Khách tự tổ chức | 42,655 | 58,617 | 39,140 | 27,352 | 3,131 | 107,797 | - | - |
Số chuyến | 292 | 315 | 124 | 144 | 21 | 228 | - | - |
Có thể bạn quan tâm!
- Vai Trò Về Mặt Kinh Tế Trong Nền Kinh Tế Quốc Dân
- Tiềm Năng Khoáng Sản Vật Liệu Xây Dựng Của Quảng Ninh
- Thực Trạng Hoạt Động Kinh Doanh Du Lịch Quảng Ninh
- Thống Kê Doanh Thu Từ Các Hoạt Động Kinh Doanh Lưu Trú, Ăn Uống Và Các Dịch Vụ Khác
- Nguyên Nhân Của Những Khó Khăn Trong Hoạt Động Du Lịch Tại Quảng Ninh
- Định Hướng Phát Triển Du Lịch Quảng Ninh Trong Những Năm Tới
Xem toàn bộ 113 trang tài liệu này.
Nguồn : -Sở Du lịch Quảng Ninh
- Viện nghiên cứu Phát triển Du lịch
Thời gian lưu trú bình quân của khách du lịch quốc tế đến Quảng Ninh còn thấp. Năm 2001, thời gian lưu trú trung bình của khách du lịch là 1,34. Mấy năm gần đây tình hình đó đã được cải thiện hơn, năm 2006 số ngày lưu trú trung bình là 2,9. Lý do chính là do các sản phẩm du lịch của Quảng Ninh và các vùng phụ cận ngày một phong phú, chương trình, và các tuyến du lịch ngày càng có chất lượng,
hấp dẫn hơn, nhưng phát triển còn chậm. Một nguyên nhân nữa là do điều kiện phát triển hạ tầng cơ sở của Tỉnh Quảng Ninh ngày càng được cải thiện, điều kiện đi lại thuận lợi nên khách du lịch muốn được tham quan nhiều nơi.
Bảng 4: Số lượng khách du lịch quốc tế và khách du lịch quốc tế có lưu trú ở Quảng Ninh
2001 | 2002 | 2003 | 2004 | 2005 | 2006 | 2007 | 2008 | |
Khách du lịch QT | 679,555 | 921,203 | 1,085,811 | 1,046,000 | 1,005,800 | 1,150,000 | 1,224,400 | 1,457,036 |
Khách QT có lưu trú | 411,859 | 564,533 | 470,033 | 705,000 | 609,300 | 750,900 | 810,972 | 892,069 |
Nguồn: Sở Du lịch Quảng Ninh
1,600,000
Tổng số
khách du lịch QT
Số khách QT
có lưu trú
1,400,000
1,200,000
1,000,000
800,000
600,000
400,000
200,000
0
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007 2008
Nguồn: Báo cáo hàng năm của Sở Du lịch Quảng Ninh
So sánh chỉ tiêu số khách thị trường khách du lịch quốc tế của Quảng Ninh tương đối ổn định so với lượng khách du lịch quốc tế đến Việt Nam. Tỷ lệ khách du lịch Quảng Ninh so với tổng khách du lịch quốc tế của cả nước tuy có biến động hàng năm nhưng ở mức cao so với các tỉnh trong cả nước.
Chi tiêu bình quân của khách quốc tế khoảng 90-100 USD/ ngày/ người. Trong đó chi tiêu cho ăn uống khoảng 25% và chi tiêu cho lưu trú khoảng 50%. Riêng số khách du lịch Trung Quốc, số chi có thấp hơn, chỉ khoảng 50-55 USD/ngày/ người.
Tóm lại thị trường khách du lịch của Quảng Ninh ổn định và phát triển tương đối vững chắc. Thị trường khách du lịch quốc tế phát triển đều, hàng năm có mức
tăng trưởng khá. Nhìn chung khách đến tham quan Quảng Ninh, bao gồm cả quốc tế và nội địa đều tăng, nhất là khách trong nước. Đã khẳng định vị thế của du lịch Quảng Ninh cũng như triển vọng phát triển của ngành kinh tế mũi nhọn này trong nền kinh tế chung của cả tỉnh. Trong đó khách du lịch đường biển đến Hạ Long được duy trì và ngày càng tăng với các tuyến: Bắc Hải – Hạ Long; Hồng Kông – Tam Á - Hạ Long và một số tuyến tàu biển khác (mỗi tháng trung bình gần 12.000 lượt khách). Hơn nữa trong những năm qua, 10 thị trường tiêu biểu đứng đầu về khách du lịch quốc tế đến Quảng Ninh vẫn giữ được vị trí trong “top ten”. Như thị trường Trung Quốc, Hàn Quốc, Pháp, Thái Lan, Đài Loan, Úc, Mỹ, Đức, Anh, Nhật Bản, số liệu thống kê dưới đây cho ta thấy điều đó.
Bảng 5: Mười thị trường tiêu biểu khách quốc tế đến Quảng Ninh
Đơn vị tính: lượt người
Năm 2005 | Năm 2006 | Năm 2007 | Năm 2008 | |
Trung Quốc | 206.460 | 210.850 | 290.946 | 158.989 |
Hàn Quốc | 143.510 | 206.650 | 188.497 | 145.041 |
Pháp | 51.627 | 60.168 | 79.330 | 63.673 |
Thái Lan | 9.845 | 33.270 | 56.224 | 46.789 |
Đài Loan | 39.025 | 41.300 | 53.989 | 45.330 |
Úc | 25.145 | 29.975 | 46.795 | 37.353 |
Mỹ | 22.330 | 29.180 | 36.482 | 28.289 |
Đức | 13.165 | 20.615 | 25.983 | 23.082 |
Anh | 13.085 | 12.190 | 23.292 | 19.280 |
Nhật Bản | 11.870 | 14.500 | 20.151 | 16.595 |
Nguồn: Sở Du lịch Quảng Ninh (dữ liệu thống kê)
2.1. Thực trạng hoạt động kinh doanh lữ khách, dịch vụ vận chuyển khách du lịch Các dịch vụ vận chuyển như hệ thống tàu thuyền, các phương tiện chuyên dụng dành cho loại hình du lịch đặc biệt còn thiếu và chưa hiện đại. Ô tô và tàu thuyền du lịch là 2 loại phương tiện chủ yếu hiện nay để phục vụ khách du lịch. Mặc dù trên thực tế, năm 2004 vịnh Hạ Long có 338 tàu tham gia làm dịch vụ vận chuyển khách du lịch, năm 2008 số tàu vận chuyển là 427, tăng 89 chiếc với sức chở cùng một lúc hơn 11.000 du khách (có 7 tàu chưa kiểm tra phân loại vì đang lên đà sửa chữa), trong đó 109 tàu có cơ sở lưu trú. Trong thời gian tới sẽ có khoảng 40 tàu lưu trú đóng từ năm 2006 hoàn thiện đưa vào sử dụng (chưa kể số tàu của các dự án đã được UBND tỉnh phê duyệt cho công ty Âu Lạc, Hạ Long Plaza,…). Với số lượng này sẽ tạo ra áp lực về mật độ tàu hoạt động trên vịnh Hạ Long, theo đó phát sinh nhiều vấn đề bất cập tiếp theo. Vì vậy việc mở rộng không gian ra vùng vịnh Bái Tử Long là yêu cầu cấp thiết. Số tàu vận chuyển khách thăm Vịnh Hạ Long có 93 tàu loại 1, 98 tàu loại 2 và 1 số tàu loại 3. Tổng vốn đầu tư cho các
phương tiện tàu thuyền trong 4 năm đó đạt 260 tỷ đồng.
Hiện nay số lượng xe du lịch ở Quảng Ninh mới có khoảng 68 chiếc. Nhu cầu vận chuyển khách du lịch của Quảng Ninh rất lớn và đòi hỏi chất lượng phục vụ cao hơn, tiện nghi hơn vì Quảng Ninh rất cần thiết phải khai thác những tiềm năng to lớn của du lịch biển, trên mặt biển và các đảo, quần đảo, cũng như phối hợp triển khai hoạt động du lịch trong nước và quốc tế. Điều này hiện nay còn là 1 khó khăn lớn đối với ngành du lịch của tỉnh.
Trong thời gian qua, Sở du lịch đã tiến hành định kỳ kiểm tra, phân loại tàu du lịch; kiên quyết loại bỏ những tàu không đảm bảo tiêu chuẩn (Đã kiểm tra, phân loại 420/427 tàu, trong đó loại bỏ 10 tàu không đạt tiêu chuẩn), đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh nên đã thu hút được nhiều doanh nghiệp đầu tư phát triển nâng cao chất lượng đội tàu; góp phần đưa công tác quản lý hoạt động tàu du lịch trên vịnh Hạ Long từng bước đi vào nề nếp và đáp ứng được nhu cầu của du khách. Vì vậy lượng khách đến thăm quan vịnh Hạ Long tăng 49% so cùng kỳ năm 2007 (tổng khách thăm vịnh 2.126.730 lượt, trong đó khách lưu trú trên tàu 194.000 lượt, tăng 13% so cùng kỳ 2007).
Bảng 6: Doanh thu của hoạt động kinh doanh lữ hành, dịch vụ vận chuyển
khách du lịch
Đơn vị: tỷ VND
Năm 2001 | Năm 2002 | Năm 2003 | Năm 2004 | Năm 2005 | Năm 2006 | Năm 2007 | Năm 2008 | |
Doanh thu du lịch | 338,994 | 561,754 | 711,494 | 882,600 | 975,350 | 1.182,070 | 1.501,229 | - |
Lữ hành | 108,708 | 241,100 | 201,208 | 194,550 | 57,700 | 161,575 | - | - |
Vận chuyển khách | 1,298 | 2,776 | 2,907 | 125,563 | 140,400 | 246,400 | - | - |
Nguồn: Thống kê hàng năm Sở Du lịch Quảng Ninh
Biểu đồ : Doanh thu của hoạt động kinh doanh lữ hành, dịch vụ vận chuyển khách du lịch
1,600,000
1,400,000
1,200,000
doanh thu du lịch
doanh thu lữ hành
doanh thu vận
chuyển khách
1,000,000
800,000
600,000
400,000
200,000
0
2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
Nguồn : Sở Du lịch Quảng Ninh
2.2. Thực trạng hoạt động kinh doanh dịch vụ lưu trú, ăn uống và các dịch vụ khác
Ngay sau khi vịnh Hạ Long được công nhận là di sản thế giới, Ban quản lý vịnh Hạ Long đã được thành lập, đồng thời Cảng tàu du lịch cũng được xây dựng, từ đó tạo đà tích cực cho hoạt động kinh doanh du lịch phát triển mà trong đó nổi bật lên là sự phát triển của các cơ sở vật chất phục vụ du lịch. Cơ sở lưu trú là điều kiện thiết yếu không thể thiếu để đảm bảo cho hoạt động và phát triển du lịch . Sự gia tăng đáng kể của khách du lịch ở Quảng Ninh đã hối thúc sự phát triển của các cơ sở lưu trú. Chỉ trong vòng 8 năm trở lại đây, hàng loạt các khách sạn, nhà nhỉ, nhà khách, nhà trọ, của các thành phần kinh tế, các cơ quan , tổ chức và tư nhân lần lượt ra đời. Trước hết là sự xuất hiện ngày càng nhiều của các cơ sở lưu trú, từ cao tới bình dân, trong đó nhiều khách sạn đã đạt tiêu chuẩn quốc tế 3 sao và 4 sao, tập trung chủ yếu tại khu du lịch Bãi Cháy. Tại các khách sạn cao cấp này có kiến trúc, nội thất đắt tiền, được trang bị bể bơi, sân tennis, sàn nhảy, ca nhạc, thang máy... Dọc theo đường Hạ Long chạy dài theo bờ biển Bãi Cháy có hàng chục khách sạn lớn, mỗi khách sạn có từ 50 đến 100 phòng, nằm trên sườn núi trong ra Vịnh Hạ Long. Các khách sạn này đều có địa thế rất đẹp, xung quanh có sân vườn rộng, có bãi đỗ xe và các khu nhà ăn, massage, karaoke… Đáng kể nhất là các khách sạn mini, các cơ sở lưu trú này đã đáp ứng được yêu cầu chỗ nghỉ cho khách du lịch nhất là vào thời kì cao điểm, song tất yếu dẫn đến tình trạng dư thừa trong thời kì vắng khách. Có rất nhiều khách sạn mini có trên dưới 10 phòng nằm dọc theo phố Vườn Đào, bên cạnh là phía sau Bưu điện Bãi Cháy. Đa số các phòng ở đây có khu phụ khép kín, nước nóng, máy điều hòa, ti vi. Ngay cạnh dốc có một bãi đỗ xe ô tô có người trông giữ suốt ngày đêm. Tại khu vực này, xen kẽ trong các khách sạn lớn, còn có các phòng nghỉ giá rẻ với khu phụ dùng chung, không có điều hòa mà chỉ có quạt. Ở bên Hòn Gai, các khách sạn tập trung chủ yếu ở trên đường Lê Thánh Tông và khu vực phố Hàng Nổi, quanh chân núi Bài Thơ.
Từ sau năm 2001, cơ sở lưu trú ở Hạ Long lại được mở rộng với khu resort, khách sạn cao cấp ở đảo Tuần Châu do công ty Âu Lạc đầu tư xâu dựng. Giá thuê các phòng của khách sạn và nhà nghỉ tư nhân thay đổi khá nhiều tù thuộc vào các ngày đông hoặc vắng khách. Thông thường, giá phòng của các khách sạn tiêu chuẩn
quốc tế 3 sao, 4 sao thường giao động trong khoảng từ 50 đến 200 USD, khá cao so với giá phòng của các cơ sở lưu trú khác. Trong 4 năm gần đây, hoạt động lưu trú trên địa bàn Quảng Ninh đã tăng đáng kể. Theo thống kê của Sở du lịch, nếu như năm 2001, toàn tỉnh mới có 406 cơ sở lưu trú với tổng số 5743 phòng nghỉ trong đó các khách sạn đạt tiêu chuẩn quốc tế từ 1 đến 5 sao có số lượng là 13 với 1171 phòng nghỉ thì trong các năm tiếp theo, các con số trên đều tăng đáng kể, năm 2008 Tổng số cơ sở lưu trú trên địa bàn tỉnh có: 857 cơ sở với 12.300 phòng; trong đó: khách sạn 5 sao: 01; khách sạn 4 sao: 09; khách sạn 3 sao: 16; khách sạn 2 sao: 34; khách sạn 1 sao:17; Khách sạn, nhà nghỉ, biệt thư đạt tiêu chuẩn: 780. Cụ thể sẽ được thể hiện bằng bảng dưới đây:
Bảng 7: Thống kê số lượng cơ sở lưu trú tại tỉnh Quảng Ninh
2001 | 2002 | 2003 | 2004 | 2005 | 2006 | 2007 | 2008 | |
Số cơ sở lưu trú | 406 | 509 | 606 | 683 | 791 | 833 | 866 | 857 |
Số lượng phòng | 5,743 | 7,157 | 8,625 | 9,907 | 11,450 | 11,790 | 12,249 | 12,300 |
Số cơ sở đạt tiêu chuẩn quốc tế | 13 | 20 | 27 | 54 | 68 | 74 | 76 | 77 |
Số lượng phòng | 1.171 | 1.960 | 2,490 | 3,612 | 4.034 | 4,346 | 4,686 | 4,701 |
Công suất sử dụng phòng | 62 | 63 | 60 | 62 | 62 | 62 | 63 | 60 |
Nguồn : Sở Du lịch Quảng Ninh
Trong năm 2006, 2007, 2008, tổng số cơ sở lưu trú trong toàn tỉnh lần lượt là 833, 866, 857 với tổng số phòng lần lượt là 11.790, 12.249, 12.300 ; trong đó số lượng khách sạn đạt tiêu chuẩn quốc tế lần lượt là 74, 89, 90.
Tuy nhiên toàn tỉnh Quảng Ninh cho tới nay có 780 cơ sở lưu trú đạt tiêu chuẩn, nhưng mới chỉ đạt công suất sử dụng buồng phòng là khoảng 60%. Điều đó cho thấy sự thiếu cân đối trong cán cân cung cầu về du lịch, vì vậy kết quả chưa tương xứng với tiềm năng, chưa tạo được sản phẩm du lịch đặc thù, hấp dẫn để thu hút du khách.
Hiện trạng cơ sở lưu trú ở Quảng Ninh cho thấy:
1. Tổng số phòng theo số liệu thống kê là thấp hơn nhiều so với thực tế.
2. Phần lớn khách sạn có quy mô nhỏ, số khách sạn có quy mô lớn trên 100 phòng ít và không đồng bộ.
3. Phần lớn được phân bộ ở thành phố Hạ Long và thị xã Móng Cái.
4. Có sự giảm số lượng cơ sở lưu trú năm 2008 do 1 số nhà nghỉ có quy mô lớn của các bộ, các nghành chuyển đổi mục đích sử dụng và 1 lí do quan trọng nữa là do cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu có ảnh hưởng không nhỏ tới tình hình hoạt động của các cơ sở lưu trú.
5. Có sự gia tăng các phòng của các khách sạn mini.
6. Số khách sạn chưa được xếp hạng còn nhiều. Các Cơ Sở Ăn Uống :
Các cơ sở ăn uống ở Quảng Ninh rất đa dạng. Hầu hết các khách sạn, nhà nghỉ, nhà khách đều phục vụ ăn uống. Ngoài ra còn các nhà hàng, quán ăn, quán giải khát, quán bar và café của các thành phần kinh tế, phần lớn của tư nhân phục vụ khách du lịch và nhân dân địa phương suốt ngày đêm. Vấn đề cần được quan tâm đối với khách du lịch và các nhà quản lý là vệ sinh an toàn thực phẩm, chất lượng phục vụ và giá cả.
Cơ sở vui chơi giải trí thể thao :
Hiện trạng các cơ sở vui chơi giải trí thể thao phục vụ khách du lịch cũng như nhân dân địa phương ở Quảng Ninh nhìn chung đã có nhiều đổi mới song thực chất vẫn chưa hoàn toàn đáp ứng được yêu cầu của khách du lịch và nhu cầu phát triển du lịch .
Dưới đây là bảng thống kê về doanh thu từ hoạt động kinh doanh của các cơ sở lưu trú, dịch vụ ăn uống và cơ sở vui chơi giải trí…