CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG NĂNG LỰC TÀI CHÍNH CỦA CÁC NGÂN HÀNG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
1.1. Năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại
Khái niệm “năng lực tài chính” của một ngân hàng là khả năng hoạt động một cách ổn định, an toàn và mang lại lợi nhuận tốt hơn mức trung bình chung dựa trên các yếu tố nội tại của ngân hàng mà không cần sự trợ giúp từ bên ngoài.
Ở mức độ một doanh nghiệp hay tổ chức tài chính, sự ổn định tài chính là trạng thái duy trì hoạt động bình thường, không có những biến động đột ngột, thất thường trong quá trình phát triển.
An toàn tài chính là khả năng mà các ngân hàng có thể tránh được các rủi ro trong hoạt động cũng như rủi ro chung của nền kinh tế, có khả năng thực hiện các nghĩa vụ của mình đồng thời bảo đảm được sự tồn tại và phát triển.
1.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến năng lực tài chính của ngân hàng
Có thể bạn quan tâm!
- Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam - 1
- Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam - 2
- Các Phương Pháp Đánh Giá Năng Lực Tài Chính Của Các Ngân Hàng
- Đánh Giá Theo Ngân Hàng Nhà Nước (Nhnn) Việt Nam (6)
- Các Nghiên Cứu Về Đánh Giá Năng Lực Tài Chính Ngân Hàng
Xem toàn bộ 165 trang tài liệu này.
1.2.1. Các nhân tố nội sinh
1.2.1.1. Trình độ quản lý
Ngân hàng hay các tổ chức tín dụng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt. Hoạt động kinh doanh chính của ngân hàng là kinh doanh tiền tệ và các dịch vụ ngân hàng. Dựa trên bản chất về hoạt động kinh doanh, hoạt động của ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp đến tất cả các ngành, các mặt của đời sống kinh tế xã hội. Với mức độ đặc biệt và ảnh hưởng sâu rộng của mình, hoạt động của các ngân hàng bị chi phối mạnh mẽ bởi các chính sách của Nhà Nước và Ngân hàng Trung Ương.
Đồng thời với quy mô hoạt động lớn và mạng lưới hoạt động mở rộng nhanh cùng sự liên hệ chặt chẽ với tất cả các biến động của thị trường tiền tệ và nền kinh tế, khả năng quản lý của ngân hàng luôn phải phát triển và biến hóa tốt nhằm thích nghi với những thay đổi liên tục của thị trường. Hiện nay khi nền kinh tế thế giới đã ở trong giai đoạn hội nhập sâu, việc tác động của thị trường thế giới và cạnh tranh từ các tổ chức tiền tệ nước ngoài là một thách thức không nhỏ cho bộ phận quản lý của các ngân hàng.
Chính vì sự phức tạp trong hoạt động ngân hàng mà khả trình độ quản lý của các cấp lãnh đạo phải được đặt lên hàng đầu trong các yếu tố ảnh hưởng đến sức mạnh tài chính của một ngân hàng. Trình độ quản lý của ngân hàng được thể hiện qua khả năng điều hành và khả năng giám sát nội bộ.
1.2.1.2. Quy mô và chất lượng tài sản
Quy mô và chất lượng tài sản của ngân hàng có ảnh hưởng quan trọng đến hoạt động của chính ngân hàng đó. Quy mô tài sản tăng lên kèm với việc mở rộng hoạt động, khả năng tiếp cận đến nhiều đối tượng khách hàng, mở rộng địa bàn hoạt động giúp thúc đẩy hoạt động, tăng trưởng doanh thu và lợi nhuận của ngân hàng, đồng thời làm tăng tầm ảnh hưởng của ngân hàng đối với các đối tác trong và ngoài nước.
Tuy nhiên việc đơn thuần chỉ gia tăng quy mô tài sản mà không quản lý tốt sẽ làm rủi ro tăng cao và có thể ảnh hưởng tiêu cực đến hoạt động của ngân hàng. Do đó không chỉ đơn thuần là quy mô tài sản mà chất lượng tài sản cũng có sức ảnh hưởng rất lớn đến sức mạnh tài chính của một ngân hàng. Khi chất lượng tài sản giảm sút thì việc tăng quy mô tài sản chỉ làm cho ngân hàng đứng trước rủi ro khó có thể ngăn ngừa.
1.2.1.3. Vốn chủ sở hữu
Nguồn vốn hoạt động chủ yếu của các ngân hàng chủ yếu là nguồn vốn huy động từ các cá nhân doanh nghiệp bên ngoài, do đó tỷ lệ nợ của ngân hàng đặc biệt lớn hơn các doanh nghiệp thông thường. Điều này tạo ra rủi ro rất lớn đối với hoạt động của các ngân hàng.
Vốn chủ sở hữu mặc dù chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng tài sản hoạt động của ngân hàng nhưng nó chiếm một vai trò vô cùng quan trọng đối với sự hoạt động và năng lực tài chính của một ngân hàng. Đây là nguồn vốn cơ sở để hình thành nên các nguồn vốn khác đồng thời tạo nên uy tín ban đầu, duy trì niềm tin của công chúng vào ngân hàng.
Khi quy mô tài sản tăng lên, hoạt động mở rộng thì rủi ro cũng tăng lên. Điều này đòi hỏi khả năng chống rủi ro tốt hơn từ phía ngân hàng. Vốn chủ sở hữu là yếu tố then chốt trong việc phòng chống rủi ro, là tấm đệm bảo vệ cho ngân hàng khi đứng trước các cú sốc nội sinh và ngoại sinh. Trong trường hợp ngân hàng mất khả năng chi trả, vốn chủ sở hữu sẽ là nguồn hoàn trả cho khách hàng. Do đó với vốn chủ sở hữu lớn, cơ cấu nguồn vốn cân đối sẽ giúp ngân hàng tạo được niềm tin về sự vững mạnh cho các khách hàng, đối tác cũng như chính cổ đông của ngân hàng.
1.2.1.4. Khả năng sinh lợi
Lợi nhuận là mục đích kinh doanh của các ngân hàng thương mại và là yếu tố quan trọng có thể dùng để đánh giá năng lực tài chính của ngân hàng. Khi lợi nhuận của ngân hàng không đủ để bù đắp chi phí hoạt động trong kỳ cùng với chi phí dự phòng cho các tài sản rủi ro, vốn tự có của ngân hàng được sử dụng để bù đắp chi phí và do đó làm xói mòn khả năng tự bảo vệ của ngân hàng trước các rủi ro và biến động của thị trường. Sự sụt giảm lợi nhuận cũng ảnh hưởng đến giá trị định giá của ngân hàng trên thị trường chứng khoán, giảm lòng tin của nhà đầu tư và các đối tượng khác trên thị trường, bao gồm cả những ngân hàng đối tác và các khách hàng.
Cuối cùng, khi ngân hàng có lợi nhuận tích lũy âm đến mức lớn hơn vốn chủ sở hữu, điều này đồng nghĩa với khả năng phá sản của ngân hàng hoàn toàn có thể xảy ra và chi phí để vực dậy ngân hàng lúc này là quá lớn.
1.2.1.5. Khả năng thanh khoản
Khả năng thanh khoản của một ngân hàng là khả năng sẵn sàng chi trả để đáp ứng như cầu rút tiền, giải ngân các khoản tín dụng đã cam kết và bù đắp những tốn thất xảy ra trong hoạt động kinh doanh. Đây là chỉ tiêu cơ bản và quan trọng nhằm đánh giá khả năng hoạt động an toàn và ổn định của ngân hàng.
1.2.1.6. Hệ thống quản trị rủi ro
Với bản chất của hoạt động kinh doanh mang tính phức tạp, ngân hàng luôn phải đối mặt với nhiều rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh của mình. Các rủi ro thường gặp của ngân hàng là rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro hoạt động và các rủi ro thị trường đến từ các yếu tố kinh tế vĩ mô cũng như các chính sách điều hành của Chính Phủ và Ngân hàng Trung Ương. Hệ thống quản trị rủi ro có vai trò then chốt đối với khả năng hoạt động an toàn và khả năng sinh lợi của ngân hàng, nhất là trong tình hình kinh doanh nhiều biến động của các ngân hàng trong thời điểm kinh tế hiện nay.
Rủi ro của ngân hàng có thể được đo lường bằng cách sử dụng phương pháp phản ánh cả những tổn thất dự đoán được gần như phát sinh trong các trường hợp thông thường và những tổn thất không dự đoán được mà chỉ là những ước tính những tổn thất thực tế sau cùng dựa trên những mô hình thống kê.
Các thông tin kết hợp về hoạt động kinh doanh và rủi ro của ngân hàng cần
được kiểm tra và xử lý kịp thời để nhằm phân tích, kiểm soát và phát hiện sớm hơn các
rủi ro. Một hệ thống quản trị rủi ro tốt có khả năng dự đoán và xác định thiệt hại trước những biến động có thể xảy ra là nhân tố quan trọng có thể nâng cao sức mạnh tài chính của ngân hàng để đủ sức chịu đựng những cú sốc có thể xảy ra.
Ngoài những nhân tố ảnh hưởng đến năng lực tài chính của ngân hàng xuất phát từ chính bản thân ngân hàng thì còn những nhân tố khác nằm ngoài khả năng kiểm soát của ngân hàng. Thuật ngữ nhân tố ngoại sinh được sử dụng trong luận văn này để đại diện cho các yếu tố bên ngoài ngân hàng.
1.2.2. Các nhân tố ngoại sinh
1.2.2.1. Sự phát triển của nền kinh tế
Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính do đó hoạt động sẽ chịu nhiều ảnh hưởng từ các yếu tố của nền kinh tế. Dựa trên bản chất về hoạt động kinh doanh, hoạt động của ngân hàng ảnh hưởng trực tiếp đến tất cả các ngành, các mặt của đời sống kinh tế xã hội. Mức độ phát triển của ngân hàng phụ thuộc nhiều vào mức độ phát triển chung của nền kinh tế, nhưng đồng thời cũng có tác động trở lại kéo theo nền kinh tế phát triển. Nền kinh tế phát triển càng cao thì nhu cầu về vốn và các dịch vụ ngân hàng cũng được đẩy mạnh từ đó tạo điều kiện cho sự phát triển của ngân hàng.
Với tác động qua lại mật thiết với nền kinh tế, trong giai đoạn kinh tế suy thoái, hoạt động của các ngân hàng cũng theo đó chịu tác động tiêu cực, với những áp lực về chất lượng tài sản, tình trạng thanh khoản, các rủi ro hoạt động tăng mạnh và những tác động này được thể hiện rõ trong tình hình hoạt động của ngân hàng hơn bất cứ ngành kinh tế nào khác. Bởi lẽ với vai trò trung gian luân chuyển vốn, khi kinh tế khó khăn thì các khoản vay của ngân hàng nhiều khả năng trở thành nợ xấu, ảnh hưởng đến việc thu hồi nợ của ngân hàng. Điều này dẫn đến tình trạng chênh lệch thanh khoản, khi các khoản tiền gửi khách hàng hoặc các nghĩa vụ khác của ngân hàng phải
thực hiện đầy đủ và đúng hạn. Tình trạng chênh lệch thanh khoản lớn dần có thể ảnh hưởng đến khả năng thanh toán, danh tiếng cũng như tăng mạnh rủi ro của ngân hàng.
Sự phát triển của nền kinh tế còn thể hiện ở trình độ chung của người dân và các doanh nghiệp, khả năng sử dụng vốn và các dịch vụ tài chính của ngân hàng của các đối tượng khách hàng. Trình độ quản lý tốt của các doanh nghiệp sẽ nâng cao khả năng hấp thụ và sử dụng vốn hiệu quả, cũng như nhu cầu sử dụng các dịch vụ và công cụ tài chính để phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Khi khách hàng có am hiểu tốt về các dịch vụ được ngân hàng cung cấp, ngân hàng sẽ có nhiều cơ hội hơn để cung cấp dịch vụ đến cho khách hàng, từ đó ngân hàng có thể mở rộng và phát triển hệ thống của chính mình để đáp ứng được nhu cầu tăng lên từ phía khách hàng.
Nhưng đồng thời với những lợi ích cho hoạt động của ngân hàng trong nền kinh tế phát triển, các ngân hàng cũng phải đối mặt với nhiều rủi ro hơn do khách hàng có nhiều khả năng sử dụng các kiến thức và phương tiện sẵn có để lách qua sự kiểm soát của ngân hàng, từ đó mang lại thiệt hại, tăng chi phí quản lý và giảm hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
1.2.2.2. Trình độ phát triển của thị trường tài chính
Thị trường tài chính phát triển có tác động cả trên phương diện tích cực và tiêu cực đến hoạt động của ngân hàng. Thứ nhất khi thị trường tài chính phát triển, các kênh chu chuyển vốn của ngân hàng cũng phát triển làm đa dạng hóa khả năng tiếp cận vốn cũng như phân phối vốn của các thành phần kinh tế. Điều này làm giảm tầm ảnh hưởng của ngân hàng trong vai trò điều tiết vốn của nền kinh tế và ảnh hưởng đến lợi nhuận của ngân hàng từ hoạt động tín dụng. Ngược lại, sự phát triển của thị trường tài chính cho phép ngân hàng triển khai được nhiều sản phẩm dịch vụ hơn cho khách hàng và tăng lợi nhuận từ hoạt động dịch vụ, giảm phụ thuộc vào hoạt động tín dụng.
Sự phát triển của thị trường tài chính còn dẫn đến việc ngân hàng sử dụng nhiều hơn các công cụ tài chính trong hoạt động kinh doanh của mình. Các công cụ tài chính phức tạp này luôn ẩn chứa nhiều rủi ro và có thể gây ra những thiệt hại mà ngân hàng không kiểm soát được, tăng khả năng vỡ nợ của ngân hàng. Sự liên kết mạnh mẽ của ngân hàng với các thành phần kinh tế, cụ thể là các khách hàng trong lĩnh vực tài chính dẫn đến việc rủi ro và lợi nhuận của ngân hàng cũng bị ảnh hưởng trực tiếp bởi sự thăng trầm của các thành viên trong thị trường. Và rủi ro từ các sản phẩm tài chính phức tạp của các đối tượng này do đó cũng ảnh hưởng đến tình hình hoạt động của ngân hàng. Một ngân hàng hoàn toàn có thể đối mặt với khả năng thay đổi nhanh chóng của lợi nhuận và chi phí dẫn đến tình trạng mất thanh khoản khi thị trường chứng khoán hay thị trường bất động sản đi xuống quá nhanh. Do đó sự phát triển của thị trường tài chính vừa là cơ hội để nâng cao thu nhập và đối tượng khách hàng, vừa là thách thức trong việc kiểm soát rủi ro và nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng.
1.2.2.3 Môi trường pháp lý
Hoạt động của NHTM chịu chi phối rất lớn từ phía Ngân hàng Trung Ương các nước, với những quy định chặt chẽ nhằm mục đích quản lý và điều tiết thị trường. Do đó môi trường pháp lý có ảnh hưởng lớn đến hoạt động cũng như các rủi ro mà ngân hàng phải đối mặt. Một sự thay đổi trong lãi suất cơ bản hoặc lãi suất tái chiết khấu có thể làm ngân hàng gánh chịu những khoản lỗ lớn cùng với việc giảm khả năng đảm bảo thanh khoản của ngân hàng. Với sự liên kết chặt chẽ của ngân hàng đối với các thành phần và lĩnh vực kinh tế, các quy định pháp luật của các ngành nghề khác vì vậy cũng tác động đến hoạt động của ngân hàng, như Luật chứng khoán, Luật đất đai, Luật thương mại…
Các quy định quản lý của Ngân hàng Trung Ương luôn được thay đổi để thích ứng với những thay đổi của thị trường và điều này gây ra rủi ro rất lớn trong hoạt động, có khả năng ảnh hưởng nhiều đến doanh thu và lợi nhuận của các NHTM. Các quy
định về tỷ giá, lãi suất tác động hầu như tức thời đến biên lợi nhuận của ngân hàng. Các giới hạn về vốn, cho vay và đầu tư được nới lỏng sẽ khuyến khích ngân hàng hoạt động theo hướng chấp nhận rủi ro nhiều hơn để đánh đổi với lợi nhuận cao hơn. Việc này sẽ làm suy giảm năng lực tài chính của ngân hàng và khiến ngân hàng trở nên yếu đi trước những nguy cơ và thiệt hại có thể xảy ra.
1.2.2.4. Các biến số kinh tế vĩ mô
Các biến số kinh tế vĩ mô là những biến đầu vào để ngân hàng hoạch định chiến lược hoạt động, đồng thời có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Các biến số quan trọng như lãi suất, lạm phát, tăng trưởng GDP, thu nhập, dân số… đều có ảnh hưởng đến quyết định đến nhu cầu sử dụng vốn và các sản phẩm dịch vụ của khách hàng.
Với tính chất đặc thù của hoạt động kinh doanh tiền tệ, lãi suất là yếu tố ảnh hưởng đến cả chi phí và doanh thu, đồng thời tiềm ẩn rủi ro lớn cho ngân hàng. Lãi suất ảnh hưởng đến nhu cầu vay vốn, khả năng trả nợ và doanh số huy động của ngân hàng. Lãi suất cao giúp tăng doanh số huy động nhưng khó tăng trưởng tín dụng, ảnh hưởng khả năng trả nợ của khách hàng, gia tăng rủi ro. Sự thay đổi của lãi suất thị trường sẽ tạo ra các khoản chênh lãi suất trong nợ và tài sản, tăng rủi ro hoạt động và làm giảm năng lực tài chính của ngân hàng.
Mức độ lạm phát của nền kinh tế lại làm ảnh hưởng đến giá trị đồng tiền, thay đổi hành vi tiêu dùng của người dân và ảnh hưởng đến hoạt động của các ngân hàng. Lạm phát cao làm người dân có xu hướng dự trữ tài sản, làm mất giá đồng tiền từ đó ảnh hưởng đến rủi ro tỷ giá của ngân hàng. Đồng thời lãi suất thực, được tính bằng lãi suất danh nghĩa trừ đi tỷ lệ lạm phát cũng là nhân tố quyết định đến chất lượng tiền gửi và kỳ hạn tiền gửi của khách hàng.