quy dương của biến PL, trong khi vùng xác định phân loại sức mạnh tài chính nội tại mạnh của ngân hàng là âm cho thấy thiệt hại do nợ xấu có thể xảy ra càng lớn thì sức mạnh tài chính nội tại của ngân hàng càng yếu, và điều đó cho thấy khả năng của ngân hàng kém đi khi phải chống lại các rủi ro kinh doanh.
2.7. Kết luận nghiên cứu
Vấn đề nghiên cứu của luận văn là “Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực tài chính của các NHTM Việt Nam theo quan điểm đánh giá của Moody”. Kết luận chính của luận văn, yếu tố tài chính có ảnh hưởng về mặt ý nghĩa thống kê đối với kết quả đánh giá năng lực tài chính của các NHTM Việt Nam theo quan điểm đánh giá của Moody là tỷ lệ dự phòng tín dụng trên tổng dư nợ tín dụng. Tuy nhiên kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, khả năng giải thích của mô hình đối với kết quả xếp hạng năng lực tài chính của các NHTM Việt Nam của Moody là không cao. Điều này chứng minh đối với các tổ chức đánh giá xếp hạng tín nhiệm như Moody, năng lực tài chính nội tại của NHTM Việt Nam được thể hiện chủ yếu qua các đánh giá phi tài chính của bản thân ngân hàng cũng như các đánh giá về môi trường kinh tế mà ngân hàng đang hoạt động. Điều này thể hiện rõ nhất trong giai đoạn từ năm 2012 trở đi, khi mà các xếp hạng năng lực tài chính nội tại của các NHTN Việt Nam được gần như là giống nhau và có sự thay đổi đồng loạt khi các đánh giá về môi trường kinh doanh hay độ ổn định quốc gia bị thay đổi. Và vì các chỉ tiêu tài chính chỉ chiếm tỷ lệ 30% trong bảng điểm tham khảo nhằm đánh giá xếp hạng năng lực tài chính nội tại của các NHTM Việt Nam, nên kết quả phân tích cho thấy mức độ giải thích không cao của các chỉ tiêu tài chính là phù hợp.
Nhìn lại các chỉ số tài chính có sức ảnh hưởng đến năng lực tài chính nội tại của ngân hàng theo đánh giá của tổ chức xếp hạng tín nhiệm Moody, có thể thấy rằng hoạt động cho vay của ngân hàng thương mại Việt Nam là hoạt động được chú ý nhiều nhất khi đánh giá. Rủi ro liên quan đến hoạt động cho vay có mức ảnh hưởng cao đến
năng lực tài chính của ngân hàng, suy yếu khả năng tự bảo vệ trước những biến động có thể xảy ra. Các chỉ số tài chính khác như thu nhập, cơ cấu vốn lại hầu như không có ý nghĩa đối với đánh giá của Moody về sức mạnh tài chính nội tại của các NHTM Việt Nam trong thời gian vừa qua. Điều này có thể lý giải khi sau một thời gian tăng trưởng nóng trong giai đoạn phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam, những rủi ro tồn tại của các ngân hàng Việt Nam là rất lớn, đặc biệt là lĩnh vực tín dụng khi hầu hết các ngân hàng Việt Nam hiện nay đều phải khó khăn trong việc sử lý hậu quả của hoạt động cho vay không an toàn mang lại.
2.8. Đánh giá chung về năng lực tài chính của các NHTM Việt Nam
Có thể bạn quan tâm!
- Đánh Giá Năng Lực Tài Chính Một Số Nhtm Việt Nam
- Mô Hình Phân Tích Các Nhân Tố Ảnh Hưởng Đến Năng Lực Tài Chính Của Các Nhtm Việt Nam Theo Quan Điểm Của Moody
- Kết Quả Phân Tích Các Yếu Tố Ảnh Hưởng Đến Năng Lực Tài Chính Của Các Nhtm Việt Nam Dựa Trên Kết Quả Xếp Hạng Của Moody
- Diễn Biến Quá Trình Tái Cơ Cấu Hệ Thống Nhtm Việt Nam
- Các Kiến Nghị Để Nâng Cao Sức Mạnh Tài Chính Của Các Nhtm Việt Nam
- Các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực tài chính của các ngân hàng thương mại Việt Nam - 15
Xem toàn bộ 165 trang tài liệu này.
2.8.1. Thành tựu đạt được
Về tốc độ tăng quy mô vốn chủ sở hữu là rất tốt, năm sau tăng hơn năm trước bình quân trên 35%.
Về chất lượng tài sản cơ bản các ngân hàng đảm bảo được theo quy định khung an toàn CAMEL
Các NHTM Việt Nam đã phát huy được ưu thế việc sử dụng đòn bẩy trong cấu trúc vốn của mình.
Năng lực tài chính và quy mô hoạt động của các NHTM tăng nhanh, thể hiện qua tăng trưởng quy mô tổng tài sản, tăng trưởng tổng dư nợ tín dụng của hệ thống NHTM. Đến cuối năm 2012, quy mô tài sản toàn của hệ thống các NHTM là 5 triệu tỷ đồng, gấp năm lần thời điểm cuối năm 2006. Tổng dư nợ tín dụng của các NHTM đến cuối tháng 12/2012 đạt gần 3,09 triệu tỷ đồng. Tổng vốn huy động từ nền kinh tế đến cuối tháng 12/2012 đạt gần 3,49 triệu tỷ đồng, gấp 14 lần năm 2000.
Năng lực cạnh tranh và hệ thống dịch vụ ngân hàng ngày càng được cải thiện
đáp ứng tốt hơn nhu cầu của nền kinh tế: Hệ thống công nghệ và quản trị ngân hàng
đang từng bước được đổi mới theo các thông lệ, chuẩn mực quốc tế. Dịch vụ ngân hàng không còn chỉ giới hạn trong phạm vi các dịch vụ huy động vốn và cấp tín dụng mà còn có nhiều loại dịch vụ ngân hàng hiện đại đã triển khai và ngày càng phổ thông như thẻ thanh toán, dịch vụ ngân hàng điện tử, kinh doanh ngoại tệ, nghiệp vụ ngân hàng đầu tư,… Mạng lưới ngân hàng mở rộng khắp nơi trong cả nước đã tạo điều kiện cho người dân và doanh nghiệp tiếp cận thuận lợi tới các dịch vụ ngân hàng. Bên cạnh kênh phân phối dưới hình thức hiện diện vật lý như điểm giao dịch, chi nhánh, phòng giao dịch thì các kênh phân phối điện tử cũng đang phát triển nhanh.
2.8.2. Hạn chế và nguyên nhân
Qua số liệu phân tích từ 2005-2012 cho thấy, hệ thống các NHTM phát triển nhanh và góp phần quan trọng đối với phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. Tuy nhiên, hệ thống các NHTM đã bộc lộ nhiều yếu kém, rủi ro gây mất an toàn hoạt động và đe dọa sự ổn định kinh tế vĩ mô.
Rủi ro trong hoạt động ngân hàng rất lớn, đặc biệt rủi ro tín dụng của các NHTM Việt Nam: Tín dụng cho nền kinh tế tăng nhanh nhưng chất lượng tín dụng của các NHTM thấp. Theo kết quả từ báo các tài chính của các NHTM, đến tháng 12/2012 nợ xấu của toàn hệ thống là 112.700 tỷ đồng tương đương 4,31% tổng dư nợ cho nền kinh tế. Theo báo cáo của NHNN, đến 31/12/2012, tỷ lệ nợ xấu của hệ thống giảm còn 4,08%. Nếu phân loại nợ theo chuẩn mực quốc tế thì tỉ lệ nợ xấu của hệ thống các NHTM có thể lên tới 2 chữ số (Tổ chức xếp hạng Fitch Rating đánh giá ở mức 13%).
Trong khi đó, dự phòng rủi ro không được trích lập đầy đủ tương xứng với mức độ rủi ro. Đến ngày 31/12/2012, dự phòng rủi ro (dự phòng cụ thể và dự phòng chung) đã trích lập chỉ tương đương 47,85% nợ xấu -theo số liệu nợ xấu của NHTM báo cáo hay tương đương 26,67% nợ xấu -theo nợ xấu của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, thấp hơn so với nhiều nước.
Mức độ tập trung tín dụng đối với một số khách hàng và nhóm khách hàng liên quan rất lớn. Khi những khách hàng vay lớn gặp khó khăn về tài chính và kinh doanh có khả năng gây tổn thất lớn cho NHTM. Đến tháng 12/2012 dư nợ cho vay doanh nghiệp nhà nước là 515.347 tỷ đồng tương đương 18,9% tổng dư nợ tín dụng, trong đó dư nợ cho vay 12 tập đoàn kinh tế của nhà nước là 318.738 tỷ đồng, tương đương 9,76% tổng dư nợ tín dụng toàn ngành và chiếm 62,66% dư nợ cho vay doanh nghiệp nhà nước. Theo số liệu đến cuối tháng 12/2012 của Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, trong tổng số 1.002.962 khách hàng được chọn xem xét có dư nợ tín dụng tại các ngân hàng trong nước có 88 khách hàng và nhóm khách hàng liên quan có dư nợ lớn (trên 1.000 tỷ đồng) với hơn 2.400 món vay. Tổng dư nợ cấp tín dụng của 88 khách hàng và nhóm khách hàng liên quan này là 480.972 tỷ đồng và chiếm tới 16,3% tổng dư nợ tín dụng của các ngân hàng trong nước.
Vấn đề sở hữu chéo, liên kết lẫn nhau của các ngân hàng làm cho rủi ro hệ thống rất cao nếu như một ngân hàng gặp khó khăn hoặc đổ vỡ. Nhiều tập đoàn kinh tế và tổng công ty nhà nước đầu tư, nắm giữ cổ phiếu và là cổ đông lớn hoặc chủ sở hữu của NHTM và tổ chức phi ngân hàng.
Nhóm lợi ích trong các NHTM lớn, điều hành hoạt động của ngân hàng theo hướng có lợi cho các cổ đông lớn hoặc ban giám đốc ngân hàng. Nhiều NHTM đã thực hiện các nghiệp vụ cấp tín dụng đối với cho các cổ đông, doanh nghiệp thuộc quyền sở hữu nhà nước hoạt động chủ yếu phục vụ tập đoàn và doanh nghiệp thành viên của tập đoàn. Điều này dễ dẫn đến vi phạm các nguyên tắc quản trị rủi ro, xung đột lợi ích và sự an toàn, ổn định của NHTM phụ thuộc vào các cổ đông lớn của NHTM. Luật tín dụng quy định một số trường hợp không được cung cấp tín dụng và bị hạn chế cấp tín dụng và giới hạn cấp tín dụng, tuy nhiên, trên thực tế bằng nhiều kỹ thuật khác nhau không ít đối tượng không tuân thủ các quy định an toàn hoạt động tín dụng.
Về vấn đề sở hữu chéo cổ phần của cổ đông lớn giữa các NHTM, Luật Các NHTM có các quy định chặt chẽ về giới hạn sở hữu cổ phần, góp phần, góp vốn, mua cổ phần nhưng trên thực tế có trường hợp lách các quy định này thông qua ủy thác, giao vốn cho bên thứ ba để vẫn có quyền kiểm soát, chi phối hoạt động của NHTM. Nhiều NHTM thành lập các công ty con hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, cho thuê tài chính và phi ngân hàng không có hiệu quả và tăng thêm rủi ro cho các NHTM, đồng thời gây khó khăn hơn cho công tác quản lý, giám sát của các cơ quan quản lý.
Mức độ an toàn của hệ thống ngân hàng Việt Nam hết sức yếu và dễ đổ vỡ trước tác động bất lợi, đột ngột từ môi trường kinh doanh:
- Chất lượng tài sản thấp, nợ xấu lớn và có chiều hướng tăng như trên đã trình bày, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế trong ít nhất 2 năm tới chính sách tiền tệ, tài khóa tiếp tục chặt chẽ, tăng trưởng kinh tế chậm lại, sản xuất kinh doanh khó khăn, thực hiện cơ cấu lại hệ thống doanh nghiệp, thị trường bất động sản còn tiếp tục điều chỉnh giảm và khó phục hồi nhanh;
- Các NHTM Việt Nam rất dễ bị mất khả năng chi trả trên diện rộng dẫn đến khủng hoảng hệ thống do một số nguyên nhân sau đây:
Tăng trưởng tín dụng quá nhanh và nhanh hơn huy động vốn trong một thời gian kéo dài làm cho bộ phận NHTM phụ thuộc vào nguồn vốn từ NHNN và huy động vốn từ thị trường liên ngân hàng để tài trợ thanh khoản thiếu hụt hoặc tạo nguồn mở rộng tín dụng.
Cho vay quá mức dẫn đến hệ số sử dụng vốn của các NHTM Việt Nam rất cao và vượt mức an toàn:
Cơ cấu nguồn vốn và sử dụng vốn không ổn định; Mất cân đối nghiêm trọng về kỳ hạn giữa nguồn vốn và sử dụng vốn.
Tài sản có tính thanh khoản cao để sẵn sàng đáp ứng các nghĩa vụ nợ đến hạn thấp làm hạn chế khả năng ứng phó các đợt rút tiền hàng loạt.
Trình độ và hệ thống quản lý của các NHTM Việt Nam hiện nay chưa đáp ứng được nhu cầu điều hành hoạt động hiện nay của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Nguồn nhân lực cấp cao của ngành ngân hàng hiện nay vẫn còn thiếu, do đó nhân sự của các ngân hàng chủ yếu luân chuyển qua lại lẫn nhau.
Bên cạnh đó, hệ thống công nghệ đang được các ngân hàng sử dụng cũng chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế. Nền kinh tế ngày càng phát triển, yêu cầu đối với số lượng và chất lượng dịch vụ của ngân hàng ngày càng cao. Tuy nhiên hiện nay các ngân hàng việc nay đều chưa thể đáp ứng nhu cầu này, do hệ thống công nghệ sử dụng còn lạc hậu, thiếu sự thay đổi. Bằng chứng là những phàn nàn của khách hàng sử dụng dịch vụ ngân hàng luôn nhiều nhưng chưa thấy có nhiều chuyển biến từ phía các ngân hàng nhằm sử lý triệt để vấn đề.
Hệ thống giám sát, quản lý rủi ro của ngân hàng cũng nằm trong tình trạng tương tự. Khi nền kinh tế Việt Nam hội nhập với thế giới, đi liền với những lợi ích đạt được, những rủi ro đi liền theo đó cũng phát triển mạnh. Thế nhưng đứng trước nhu cầu giám sát, quản lý rủi ro ngày càng cao đó, các NHTM Việt Nam vẫn đang loay hoay tự tìm cách cải thiện từng vấn đề riêng biệt, mà chưa có được những kế hoạch tổng thể nhằm nâng cao khả năng quản trị của ngân hàng, sử dụng kinh nghiệm của những tổ chức dịch vụ hoặc ngân hàng nước ngoài.
Một hạn chế khác của hệ thống ngân hàng Việt Nam là việc quá phụ thuộc vào hoạt động tín dụng. Trong giai đoạn tăng trưởng tín dụng mạnh của thị trường, các NHTM Việt Nam có mức lợi nhuận cao hằng năm và mức tăng trưởng lợi nhuận rất nhanh. Nhưng đến giai đoạn tín dụng tăng trưởng chậm, ngân hàng hạn chế cho vay vì vấn đề rủi ro thì lợi nhuận của hệ thống ngân hàng Việt Nam giảm rõ rệt. Việc phụ thuộc quá nhiều vào hoạt động tín dụng làm suy yếu năng lực tài chính của ngân hàng, dẫn đến khả năng dễ dàng thua lỗ và phá sản trong tình hình kinh tế nhiều khó khăn.
Ngoài ra cũng phải kể đến những ảnh hưởng từ các yếu tố bên ngoài, như sự ổn định, phát triển của nền kinh tế, những chính sách điều hành của Chính Phủ và Ngân hàng Nhà Nước đến năng lực tài chính của hệ thống ngân hàng Việt Nam. Như đã trình bày, hệ thống ngân hàng Việt Nam có mối quan hệ chặt chẽ với nền kinh tế, đặc biệt là các ngành có nhu cầu tín dụng cao như tài chính, chứng khoán và bất động sản. Những bất ổn đến từ các ngành kinh tế sẽ tác động trở lại, gây thiệt hại cho hệ thống ngân hàng. Những chính sách khác về đầu tư, quản lý và giám sát của Chính Phủ và Ngân hàng Nhà Nước cũng tác động đáng kể đến năng lực tài chính của các ngân hàng.
Kết luận chương 2
Chương 2 đã trình bày các nội dung chính sau:
- Nêu thực trạng tình hình tài chính của các NHTM, đưa ra đánh giá cụ thể sức mạnh tài chính của một số NHTM tiêu biểu của hệ thống.
- Thực hiện khảo sát và giới thiệu lý thuyết mô hình và các bước thực hiện nghiên cứu phân tích..
- Trình bày các kết quả nghiên cứu.
Đánh giá thực trạng hệ thống ngân hàng cho thấy các NHTM Việt Nam còn nhiều vấn đề tồn tại, cùng với việc dễ bị tổn thương bởi những biến động trong hoạt động kinh doanh. Chất lượng tài sản kém và khả năng thanh khoản chưa cao là vấn đề lớn nhất của các ngân hàng, khi không đáp ứng được các yêu cầu thanh khoản chung cho hệ thống ngân hàng trên thế giới.
Kết quả phân tích các yếu tố tài chính nhằm đánh giá ảnh hưởng của các yếu tố tài chính đến năng lực tài chính của các NHTM Việt Nam cho thấy, biến duy nhất có ý nghĩa thống kê ở mức 5% là tỷ lệ dự phòng tín dụng trên tổng dư nợ cho vay.
CHƯƠNG 3
CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC TÀI CHÍNH CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
3.1. Vấn đề tái cấu trúc hệ thống NHTM Việt Nam
3.1.1 Đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015”(10)
Theo đề án 254, đến năm 2020 cơ cấu lại căn bản, triệt để và toàn diện hệ thống các tổ chức tín dụng để phát triển được hệ thống các tổ chức tín dụng đa năng theo hướng hiện đại, hoạt động an toàn, hiệu quả vững chắc với cấu trúc đa dạng về sở hữu, quy mô, loại hình có khả năng cạnh tranh lớn hơn và dựa trên nền tảng công nghệ, quản trị ngân hàng tiên tiến phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế về hoạt động ngân hàng nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu về dịch vụ tài chính, ngân hàng của nền kinh tế. Đề án hướng đến việc nâng cao vai trò, vị trí chi phối của các ngân hàng thương mại nhà nước; bảo đảm các ngân hàng thương mại nhà nước thật sự là lực lượng chủ lực, chủ đạo của hệ thống các tổ chức tín dụng, có quy mô lớn, hoạt động an toàn, hiệu quả và có năng lực quản trị tiên tiến, khả năng cạnh tranh trong nước và quốc tế. Mục tiêu của đề án là tạo ra được các ngân hàng thương mại đạt trình độ khu vực về quy mô, quản trị, công nghệ và khả năng cạnh tranh.
Để đề ra phương án phát triển phù hợp cho các NHTM Việt Nam, NHNN đánh giá các NHTM dựa trên thực trạng tài chính, hoạt động và quản trị, đặc biệt là chất lượng tài sản, công nợ, vốn tự có và mức độ an toàn của các TCTD để chia các TCTD thành ba nhóm: TCTD lành mạnh; TCTD thiếu thanh khoản tạm thời và TCTD yếu kém. Dựa trên phân loại này, các giải pháp thích hợp cho từng nhóm TCTD được đưa ra. Tuy nhiên tất các các TCTD đều phải thực hiện các biện pháp cơ cấu tài chính, hoạt động và quản trị theo hướng chung như:
(10) Trích từ quyết định 254/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính Phủ ký ngày 01/03/2012