khái niệm của từng biến và phù hợp với đối tượng khảo sát là hộ KDCT trong các làng nghề của Việt Nam.
3.3. Nghiên cứu định lượng
Hộ kinh doanh cá thể với quy mô kinh doanh nhỏ, có một địa điểm kinh doanh, sử dụng không quá 10 lao động, do đó để trả lời câu hỏi nghiên cứu và các giả thuyết nghiên cứu, tác giả sử dụng phương pháp khảo sát chủ hộ15 KDCT trong làng nghề ở Việt Nam về hành vi tuân thủ thuế của chính họ và các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tuân thủ thuế.
3.3.1. Thang đo các biến
3.3.1.1. Biến phụ thuộc
Tuân thủ thuế tự nguyện
Tuân thủ thuế tự nguyện là việc người nộp thuế nộp tiền thuế chính xác, đầy đủ và đúng thời hạn mà không cần những biện pháp ép buộc của cơ quan thuế (Kirchler và cộng sự, 2008)
Dựa trên thang đo của Kirchler và Wahl (2010) xây dựng, đây là thang đo được nhiều nghiên cứu về tuân thủ thuế đã sử dụng để đo lường TTT tự nguyện từ khi thời điểm thang đo được công bố (Xem Raihana và Pope,2014; Olsen và cộng sự, 2018; Gobena và Van Dijke, 2016; Siglé và cộng sự, 2018; Malik và Younus, 2020; Carsamer, 2020; Sikayu và cộng sự, 2020; Hassan và cộng sự, 2021), tuân thủ thuế tự nguyện được đo lường qua các chỉ báo dưới đây. Trong đó, các chỉ báo được đánh giá bằng thang điểm Likert 5 mức độ: từ 1 = Hoàn toàn không đồng ý, đến 5 = Hoàn toàn đồng ý.
Chỉ báo | Nguồn | |
Khi tôi nộp thuế theo yêu cầu của pháp luật, tôi sẽ làm như vậy ... | Kirchler và Wahl (2010) | |
TTTN 01 | ... bởi vì tôi đóng thuế là hoàn toàn tự nguyện | |
TTTN 02 | ... bởi vì đối với tôi, rõ ràng đây là những gì mà chúng ta nên làm | |
TTTN 03 | ... bởi vì tôi coi đó là nghĩa vụ của mình với tư cách là một công dân | |
TTTN 04 | ... mặc dù tôi biết rằng những người khác không làm điều đó | |
TTTN 05 | ... bởi vì tôi chắc chắn rằng tôi đang làm điều đúng đắn |
Có thể bạn quan tâm!
- Ảnh Hưởng Của Các Yếu Tố Kinh Tế Đến Hành Vi Tuân Thủ Thuế
- Thông Tin Về Người Được Phỏng Vấn
- Các yếu tố ảnh hưởng đến hành vi tuân thủ thuế của hộ kinh doanh cá thể trong các làng nghề ở Việt Nam - 13
- Giới Thiệu Chung Về Làng Nghề Và Hộ Kinh Doanh Cá Thể
- Kết Quả Thu Thuế Từ Hộ Gia Đình Và Cá Nhân Kinh Doanh Khu Vực Ngoài Quốc Doanh Của Cục Thuế Hà Nội, Năm 2020
- Độ Tin Cậy Của Thang Đo Với Các Biến Phụ Thuộc
Xem toàn bộ 256 trang tài liệu này.
15 Chủ hộ KDCT được nhìn nhận là người có quyền quyết định nhiều vấn đề của Hộ KDCT, trong đó bao gồm cả việc tuân thủ thuế của hộ KDCT.
Tuân thủ thuế bắt buộc
Tuân thủ thuế bắt buộc là việc người nộp thuế thực hiện tuân thủ thuế bởi vì họ tính toán và nhận thấy các chi phí (rủi ro) cho việc không tuân thủ thuế là cao hơn so với việc tuân thủ thuế (Kirchler và cộng sự, 2008)
Dựa trên thang đo của Kirchler và Wahl (2010) xây dựng, đây là thang đo được nhiều nghiên cứu về tuân thủ thuế đã sử dụng để đo lường tuân thủ thuế tự nguyện từ khi thời điểm thang đo được công bố (Xem Olsen và cộng sự, 2018; Gobena và Van Dijke, 2016; Siglé và cộng sự, 2018; Carsamer, 2020), tuân thủ thuế bắt buộc được đo lường qua các chỉ báo dưới đây. Trong đó, các chỉ báo được đánh giá bằng thang điểm Likert 5 mức độ: từ 1 = Hoàn toàn không đồng ý, đến 5 = Hoàn toàn đồng ý.
Chỉ báo | Nguồn | |
Khi nộp thuế theo quy định, tôi sẽ làm như vậy ... | Kirchler và Wahl (2010) | |
TTBB 01 | ... mặc dù tôi thực sự không muốn nộp bất kỳ khoản thuế nào | |
TTBB 02 | ... vì cơ quan thuế thường xuyên kiểm tra những hộ kinh doanh trong làng nghề của chúng tôi | |
TTBB 03 | ... bởi hình phạt với các hành vi trốn thuế, tránh thuế là rất nghiêm khắc | |
TTBB 04 | ... vì tôi không biết chính xác cách tránh thuế (trốn thuế) mà không gây chú ý với cơ quan thuế | |
TTBB 05 | ... sau khi tôi đã suy nghĩ rất nhiều về cách có thể giảm số tiền thuế phải nộp một cách hợp pháp |
3.3.1.2. Biến độc lập
Tinh thần thuế
Tinh thần thuế là “động cơ nội tại để nộp thuế xuất phát từ quan điểm đạo đức của người nộp thuế khi nhìn nhận đóng thuế là một nghĩa vụ đóng góp cho xã hội” (Cummings và cộng sự, 2009). Dựa trên thang đo của Devos (2013) và Taing và Chang (2020) đã có sự điều chỉnh, tinh thần thuế được đo lường qua các chỉ báo dưới đây. Trong đó, các chỉ báo được đánh giá bằng thang điểm Likert 5 mức độ: từ 1 = Hoàn toàn không đồng ý, đến 5 = Hoàn toàn đồng ý.
Chỉ báo | Nguồn | |
TT 01 | Tôi nghĩ rằng mình nên kê khai trung thực tất cả doanh thu với cơ quan thuế | Devos (2013); Taing và Chang (2020) |
TT 02 | Tôi cho rằng người nộp thuế không nên kê khai thu nhập thấp đi để nhằm giảm nghĩa vụ thuế (số thuế phải nộp) | |
TT 03 | Tôi sẽ không trốn thuế, tránh thuế ngay cả khi tôi có cơ hội làm điều đó | |
TT 04 | Tôi nghĩ nộp thuế là nghĩa vụ của mình | |
TT 05 | Tôi nghĩ trốn thuế, tránh thuế là hành vi sai trái | |
TT 06 | Tôi sẽ luôn chấp hành và làm theo pháp luật về thuế |
Chuẩn mực chủ quan
Chuẩn mực chủ quan là nhận thức của người nộp thuế về cách mà hầu hết mọi người quan trọng đối với người đó cho rằng anh ta /cô ta nên hay không nên thực hiện hành vi tuân thủ thuế (theo Fishbein và Ajzen, 1975)
Bobek và Hatfield (2003), Bobek và cộng sự (2007) xây dựng thang đo về chuẩn mực chủ quan với hành vi tuân thủ thuế, thang đo này cũng được nhiều nghiên cứu sử dụng (Harinurdin, 2009; Benk, Çakmak và Budak, 2011; Adellia và cộng sự, 2020,...). Vì vậy, chuẩn mực chủ quan được đo lường qua các chỉ báo dưới đây. Trong đó, các chỉ báo được đánh giá bằng thang điểm Likert 5 mức độ: từ 1 = Hoàn toàn không đồng ý, đến 5 = Hoàn toàn đồng ý.
Chỉ báo | Nguồn | |
CM01 | Hầu hết những người trong gia đình đều sẽ tán thành khi tôi gian lận thuế* | Bobek và Hatfield (2003), Bobek và cộng sự (2007) |
CM02 | Hầu hết các hộ kinh doanh ở đây đều cho rằng hành vi gian lận thuế là có thể chấp nhận được* | |
CM03 | Hầu hết mọi người ở đây đều nghĩ gian lận thuế là một hành vi phạm tội tầm thường* | |
CM04 | Trốn thuế là hành vi vi phạm đạo đức dù số tiền đó không cần biết là ít hay nhiều | |
CM05 | Hầu hết những người quan trọng với tôi đều nghĩ trốn thuế là hành động sai trái |
Nhận thức về tính công bằng
Công bằng về thuế là nhận thức (niềm tin) của người nộp thuế rằng thuế được áp dụng với họ là công bằng (Theo Siahaan, 2012)
Dựa trên thang đo của Gerbing (1988) xây dựng thang đo đo lường công bằng về thuế và cũng đây cũng là thang đo được nhiều nghiên cứu áp dụng (Siahaan, 2012; lshadli, 2015; Sonnur, 2016; Muhammad Akram, 2018). Nhận thức về tính công bằng được đo lường qua các chỉ báo dưới đây. Trong đó, các chỉ báo được đánh giá bằng thang điểm Likert 5 mức độ: từ 1 = Hoàn toàn không đồng ý, đến 5 = Hoàn toàn đồng ý.
Chỉ báo | Nguồn | |
CB 01 | Tôi tin rằng cách thức phân bổ gánh nặng thuế cho những người nộp thuế là công bằng | Gerbing (1988), Sonnur (2016) |
CB 02 | Cá nhân tôi tin rằng hệ thống thuế là công bằng | |
CB 03 | Đối với những hộ kinh doanh, tôi nghĩ rằng hệ thống thuế là công bằng | |
CB 04 | Mọi người ở nước ta đều đóng thuế ở mức phù hợp với thu nhập của họ | |
CB 05 | Nhìn chung, tôi nghĩ hệ thống thuế hiện tại là công bằng |
Nhận thức về quyền lực của cơ quan thuế
Nhận thức về quyền lực của cơ quan thuế được định nghĩa là nhận thức của người nộp thuế “về năng lực của cơ quan thuế trong việc phát hiện và trừng phạt tội phạm về thuế” (Wahl và cộng sự, 2010)
Dựa trên thang đo của Verboon và Van Dijke (2007) và được Siglé và cộng sự (2018) điều chỉnh, nhận thức về quyền lực của cơ quan thuế được đo lường qua các chỉ báo dưới đây. Trong đó, các chỉ báo được đánh giá bằng thang điểm Likert 5 mức độ: từ 1 = Rất không đồng ý, đến 5 = Rất đồng ý
Chỉ báo | Nguồn | |
Ông/Bà có nghĩ khả năng là cơ quan thuế sẽ phát hiện ra sai phạm ở một hộ kinh doanh tương tự như hộ Ông/Bà, về… | Verboon và Van Dijke (2007); Siglé và cộng sự (2018) | |
QL 01 | … Thanh toán chủ yếu bằng tiền mặt được giữ ngoài sổ sách | |
QL 02 | … Bị phát hiện đã trốn thuế/tránh thuế | |
QL 03 | … Thu nhập không được ghi đầy đủ trong tờ khai thuế |
Nhận thức về thuế
Nhận thức về thuế đề cập đến sự hiểu biết của người nộp thuế về các luật và quy định về thuế về các vấn đề thuế cụ thể có liên quan (Taing và Chang, 2020)
Dựa trên thang đo của Devos (2013), Taing và Chang (2020), nhận thức về thuế được đo lường qua các chỉ báo dưới đây. Trong đó, các chỉ báo được đánh giá bằng thang điểm Likert 5 mức độ: từ 1 = Rất không đồng ý, đến 5 = Rất đồng ý.
Chỉ báo | Nguồn | |
NhT 01 | Tôi biết số thuế mà hộ kinh doanh phải nộp hàng năm | Devos (2013); Taing và Chang (2020) |
NhT 02 | Tôi biết các loại thuế mà hộ kinh doanh phải nộp | |
NhT 03 | Tôi biết khi nào hộ chúng tôi phải nộp thuế giá trị gia tăng (hoặc thuế thu nhập cá nhân,...) | |
NhT 04 | Tôi biết các hình phạt đối với hành vi trốn thuế là như thế nào | |
NhT 05 | Tôi biết khả năng bị kiểm tra bởi cán bộ thuế liên quan đến vấn đề thuế của tôi | |
NhT 06 | Tôi biết cách cơ quan thuế ấn định doanh thu hàng năm với hộ kinh doanh như của mình | Tác giả đề xuất |
Niềm tin vào cơ quan thuế
Niềm tin vào cơ quan thuế là nhận thức của người nộp thuế rằng cơ quan thuế đáng tin cậy và làm việc vì lợi ích chung (theo Kirchler và cộng sự, 2008).
Dựa trên thang đo do Siglé và cộng sự (2018); Taing và Chang (2020); Verboon và Van Dijke (2010) xây dựng, tác giả đã lựa chọn và phỏng vấn chuyên gia về các thang đo phù hợp với định nghĩa về niềm tin vào cơ quan thuế. Vì vậy, niềm tin vào cơ quan thuế được đo lường qua các chỉ báo kết hợp từ nhiều công trình nghiên cứu trước và được trình bày dưới đây. Trong đó, các chỉ báo được đánh giá bằng thang điểm Likert 5 mức độ: từ 1 = Hoàn toàn không đồng ý, đến 5 = Hoàn toàn đồng ý.
Chỉ báo | Nguồn | |
NT 01 | Cơ quan thuế hành động chính xác | Siglé và cộng sự, (2018) |
NT 02 | Tôi cho rằng cán bộ thuế làm việc công tâm và minh bạch | Taing và Chang (2020) |
NT 03 | Tôi hài lòng về cách cơ quan thuế giải quyết các vấn đề về thuế với mình | Verboon và Van Dijke (2010) |
NT 04 | Nhìn chung, tôi hoàn toàn tin tưởng vào các quyết định của cơ quan thuế |
Sự phức tạp về thuế
Theo Natrah Saad (2014), Sự phức tạp về thuế được hiểu là nhận thức của người nộp thuế về hệ thống thuế hiện tại và họ cho rằng hệ thống thuế là phức tạp (có thể có
nhiều dạng như phức tạp về tính toán, phức tạp của biểu mẫu, phức tạp về tuân thủ, phức tạp của quy tắc, phức tạp về thủ tục và mức độ dễ đọc thấp).
Dựa trên thang đo được sử dụng trong nghiên cứu của Taing và Chang (2020), sự phức tạp về thuế được đo lường qua các chỉ báo dưới đây. Trong đó, các chỉ báo được đánh giá bằng thang điểm Likert 5 mức độ: từ 1 = Hoàn toàn không đồng ý, đến 5 = Hoàn toàn đồng ý.
Chỉ báo | Nguồn | |
PT 01 | Nội dung tờ khai thuế khó hiểu. | Taing và Chang (2020) |
PT 02 | Tôi thấy không dễ dàng tính được số thuế hàng năm mà hộ của mình phải nộp | |
PT 03 | Thủ tục kê khai thuế hoặc nộp thuế rất phức tạp | |
PT 04 | Tôi tốn rất nhiều thời gian cho việc nộp thuế | |
PT 05 | Nói chung, tôi nghĩ rằng hệ thống thuế ở Việt Nam rất phức tạp |
Thông tin về thuế
Thông tin thuế là mức độ chính xác, kịp thời và đầy đủ của thông tin về thuế mà người nộp thuế nhận được từ cơ quan quản lý thuế (Chen, 2010)
Dựa trên thang đo Chen (2010), thông tin về thuế được đo lường qua các chỉ báo dưới đây. Trong đó, các chỉ báo được đánh giá bằng thang điểm Likert 5 mức độ: từ 1
= Hoàn toàn không đồng ý, đến 5 = Hoàn toàn đồng ý.
Chỉ báo | Nguồn | |
ThT 01 | Tôi có thể nhận được thông tin chính xác về các vấn đề thuế từ nhiều nguồn như truyền hình, báo, đài, Facebook | Chen (2010); Taing và Chang (2020) |
ThT 02 | Thông tin thuế mà tôi nhận được từ cơ quan thuế là rõ ràng và dễ hiểu | |
ThT 03 | Cơ quan thuế cung cấp thông tin, giải thích đầy đủ và rõ ràng những câu hỏi (thắc mắc) của tôi về thuế và các thủ tục liên quan khi thực hiện nghĩa vụ thuế | |
ThT 04 | Tôi thường nhận được đầy đủ thông tin về các vấn đề thuế của mình. | |
ThT 05 | Tôi luôn được cung cấp thông tin cập nhật và có liên quan về các vấn đề thuế. |
Xử phạt
Xử phạt được hiểu là việc áp dụng những hình phạt nhằm mục đích thực thi các nghĩa vụ pháp lý với người nộp thuế (Schwartz và Orleans, 1967).
Dựa trên thang đo do Wenzel (2002); Wenzel (2004) xây dựng, xử phạt được đo lường qua các chỉ báo dưới đây. Trong đó, các chỉ báo được đánh giá bằng thang điểm Likert 5 mức độ: từ 1= Rất không có khả năng đến 5= Rất có khả năng
Chỉ báo | Nguồn | |
Nếu một hộ KDCT bị cơ quan thuế phát hiện việc trốn thuế, ông/bà cho rằng khả năng xảy ra những hình phạt dưới đây như thế nào? | ||
XP 01 | Nộp thuế với số tiền phạt tương đối nhỏ | Wenzel, (2002); Wenzel, (2004); Phạm Thị Mỹ Linh (2019) |
XP 02 | Nộp tiền phạt đáng kể | |
XP 03 | Bị kiểm tra, thanh tra thuế chi tiết hơn vào những năm tiếp theo | |
XP 04 | Bị truy tố hình sự |
Khả năng bị kiểm tra, thanh tra thuế
Khả năng bị kiểm tra, thanh tra thuế là việc người nộp thuế nhận thức được khả năng CQT sẽ phát hiện ra được những hành vi không TTT của họ và khi đó CQT sẽ thực hiện hoạt động kiểm tra, thanh tra thuế với họ (theo Jackson và Milliron, 1986a)
Dựa trên thang đo do Bobek và cộng sự ( 2007) xây dựng, khả năng bị kiểm tra, thanh tra thuế được đo lường qua các chỉ báo dưới đây. Trong đó, các chỉ báo được đánh giá bằng thang điểm Likert 5 mức độ: từ 1= Rất không có khả năng đến 5= Rất có khả năng
Chỉ báo | Nguồn | |
KT 01 | Khi hộ kinh doanh gian lận thuế, Ông/Bà cho rằng khả năng bị kiểm tra/ thanh tra thuế là như thế nào? | Bobek và cộng sự, ( 2007); Phạm Thị Mỹ Linh (2019) |
KT 02 | Nếu bị kiểm tra, thanh tra thuế, Ông/Bà nghĩ khả năng cơ quan thuế phát hiện ra những gian lận thuế của hộ kinh doanh hay không? | |
KT 03 | Ông/Bà nghĩ khả năng tờ khai thuế năm 2020 của mình sẽ bị kiểm tra kỹ lưỡng? |
3.3.2. Thiết kế phiếu điều tra
Phiếu điều tra trong nghiên cứu này được thiết kế lần đầu dựa trên kết quả tổng quan các khái niệm, thang đo đối với các biến trong mô hình nghiên cứu và tiến hành so sánh, phân tích lựa chọn thang đo phù hợp nhất với mục tiêu nghiên cứu. Tiếp đó tác giả đã tiến hành phỏng vấn, xin ý kiến góp ý của 5 chuyên gia về bản dịch xuôi của các các thang đo để tiến hành chỉnh sửa và đưa ra phiếu điều tra (Xem phụ lục 3); Tiếp đó, tác giả đã tiến hành khảo sát thử 15 hộ kinh doanh cá thể với mục đích đánh giá lại xem những câu hỏi nào khó trả lời hoặc thuật ngữ nào khó hiểu, sau đó tác giả chỉnh sửa lần 2 của phiếu điều tra và đưa đến phiếu điều tra chính thức. Nội dung phiếu điều tra gồm 3 phần chính (phụ lục 02):
Thông tin mở đầu: Nội dung phần này bao gồm phần giới thiệu mục đích, ý nghĩa của nghiên cứu và những thông tin có liên quan để người trả lời có được hình dung chung về nghiên cứu.
Thông tin chính về các phát biểu: Trong phần này nêu lên những phát biểu nhằm ghi lại mức độ ý kiến của người trả lời. Nội dung của những phát biểu được thiết kế theo mô hình và thang đo đã được nghiên cứu
Thông tin thống kê: Nhằm thu thập thêm những thông tin khác liên quan đến người trả lời để thống kê, mô tả mẫu cũng như giải thích rõ thêm cho những thông tin chính nếu thấy cần thiết.
3.3.3. Mẫu ghiên cứu
Dựa trên mục tiêu và phạm vi nghiên cứu, tổng thể nghiên cứu của luận án là các hộ kinh doanh cá thể trong các làng nghề ở các tỉnh và thành phố thuộc vùng đồng bằng Sông Hồng. Đối tượng khảo sát là chủ hộ KDCT trong các làng nghề ở Việt Nam.
Kỹ thuật lấy mẫu trong nghiên cứu này sử dụng kỹ thuật lấy mẫu thuận tiện với hai giai đoạn. Cụ thể như sau:
- Giai đoạn 1: Dựa trên số liệu thống kê số lượng các làng nghề ở các tỉnh và thành phố thuộc vùng đồng bằng Sông Hồng, tác giả dựa trên tỷ lệ số làng nghề trên mỗi tỉnh hoặc thành phố để quyết định sẽ tiến hành khảo sát bao nhiêu làng nghề ở mỗi tỉnh, sau đó tác giả lựa chọn một số làng nghề trên mỗi tỉnh để tiến hành thực hiện khảo sát điều tra bằng bảng hỏi.
- Giai đoạn 2: Dựa danh sách làng nghề đã được lựa chọn ở giai đoạn 1, tác giả tiến hành thực hiện khảo sát điều tra hộ kinh doanh cá thể ở các làng nghề đó theo kỹ thuật lấy mẫu thuận tiện.