của Nho Giáo, mối quan. hệ giữa cha mẹ và con cái được xác định ở vị trí thứ hai "Quân thần- Phụ tử- Phu phụ. Mạnh Tử có nói: "Không trọn đạo với cha mẹ, không đáng làm người". "Mười bốn điều răn của Phật" viết: "Tội lỗi lớn nhất của đời người là bất hiếu". Thiên chúa giáo cũng chú trọng giáo dục gia đình đề cao lòng hiếu thảo của con cái đối với cha mẹ. Điều răn thứ bốn trong "Mười điều răn" của Thiên chúa giáo cũng nêu rõ con cái phải thảo kính với cha mẹ. Ở góc độ pháp lý, những hành vi bất hiếu thì dù ở thời đại nào cũng bị xử lý bằng những chế tài nghiêm khắc. Trong xã hội phong kiến ở Việt Nam, nghĩa vụ chăm sóc, kính trọng, chăm sóc, phụng dưỡng ông bà, cha mẹ đã được qui định. Điều 506 Bộ luật Hồng Đức qui định: "Con cháu trái lời dạy bảo và không phụng dưỡng bề trên, mà bị ông bà, cha mẹ trình lên quan thì xử tội đồ làm khao đinh... ", "Làm người con phải kính nuôi cha mẹ, không được hiềm vì nỗi nghèo khó mà để đến nỗi bội nghĩa cha mẹ ... Trái lệnh thì phải chiếu theo pháp luật mà luận tội" và "Con không hiếu thảo mà nuôi cha mẹ sẽ bị tội tám mươi trượng, biếm ba tư và đồ làm khao đinh".
Theo Bộ luật Hồng Đức bất hiếu là một tội danh thuộc "Thập ác!' cần trừng trị nghiêm khắc, không được khoan giảm. Điều 307 Bộ luật Gia Long cũng qui định nghĩa vụ của con cháu là phải phụng dưỡng ông bà, cha mẹ. Như vậy, việc qui định chặt chẽ nghĩa vụ của con với cha mẹ, cháu với ông bà trong xã hội phong kiến ở Việt Nam đã tạo ra nề nếp, tôn ti trật tự, tinh thần tương trợ, tương thân, tương ái trong gia đình dưới xã hội phong kiến. Kế thừa truyền thống đạo lý và pháp lý của dân tộc. Điều 35 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 qui định:
Con có bổn phận yêu quí, kính trọng, biết ơn, hiếu thảo với cha mẹ, lắng nghe những lời khuyên bảo đúng đắn của cha mẹ, giữ gìn danh dự, truyền thống tốt đẹp của gia đình. Con có nghĩa vụ và quyền chăm sóc, nuôi dưỡng cha mẹ. Nghiêm cấm con có hành vi ngược đãi, hành hạ, xúc phạm cha mẹ [26].
Như vậy mặc dù luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 và Luật Hôn thân và gia đình năm 1986 chưa qui định cụ thể về nghĩa vụ cấp dưỡng của con đối với cha mẹ, nhưng qui định này đã được bổ sung trong Luật Hôn thân và gia đình năm 2000. Tuy nhiên nghĩa vụ nuôi dưỡng chỉ được đặt ra đối với con trong trường hợp cha mẹ không còn khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Không có khả năng lao động được hiểu là cha mẹ do những nguyên nhân như già yếu, ốm đau, bệnh tật nên không có đủ sức khỏe để làm việc có thu nhập nuôi sống bản thân. Còn không có tài sản để tự nuôi mình có nghĩa là cha mẹ hoàn toàn không có chút tài sản nào hoặc tuy có tài sản nhưng đó là những tài sản thiết yếu như đồ dùng tư trang, đồ thờ cúng... Nghĩa vụ cấp dưỡng cũng chỉ đặt ra với người con đã thành niên hiện đang sống chung với cha mẹ, trong quan hệ giữa người con với cha mẹ trong trường hợp này là nghĩa vụ nuôi dưỡng chăm sóc, chỉ khi người con này trốn tránh không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng thì nghĩa vụ cấp dưỡng mới đặt ra đối với họ như một chế tài bắt buộc do vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng.
Tuy nhiên, chỉ có thể tước quyền hưởng di sản của con trong trường hợp con đã bị kết án về hành vi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản là cha hoặc mẹ. Hành vi nguy hiểm này thường được xác định như con đã không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng cha mẹ, đã để cho cha mẹ bị đói rách, không có nơi sinh sống... Tuy nhiên, nếu trường hợp người con cũng sống trong cánh nghèo đói, không đủ cơm ăn, áo mặc và cha hoặc mẹ cùng chung sống với các con, cháu và cùng chịu thiếu thốn như con, cháu thì không thể kết luận là người con đã vi phạm về nghĩa vụ nuôi dưỡng. Người con vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng phải là người có điều kiện nuôi dưỡng nhưng không thực hiện nghĩa vụ đó theo qui định của pháp luật. Có quan điểm cho rằng một người khi còn sống đã lâm vào cảnh bần hàn, không có đủ cơm ăn, áo mặc, thì khi họ chết không có di sản để chia thừa kế do đó sẽ không cần đặt ra vấn đề
chia di sản thừa kế cho những người thừa kế của họ. Quan điểm này chưa chính xác, bởi một người có thể lâm vào hoàn cảnh khó khăn cần được nuôi dưỡng vẫn có thể để lại di sản thừa kế như nhà ở, quyền sử dụng đất... cho con cái của họ cho nên chế tài tại điểm b khoản 1 Điều 643
Bộ luật Dân sự năm 2005 vẫn có thể được áp dụng trong trường hợp này.
+ Nghĩa vụ nuôi dưỡng giữa cha mẹ và con cái: Nếu nghĩa vụ của con là phải chăm sóc nuôi dưỡng cha mẹ trong mọi trường hợp, mọi hoàn cảnh thì cha mẹ chỉ có nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng con khi con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự, không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi sống bản thân mình. Cha mẹ luôn là người thừa kế theo luật đối với di sản do con để lại nhưng cha mẹ sẽ không được hưởng thừa kế theo luật đối với di sản của con nếu cha mẹ không thực hiện việc nuôi dưỡng con khi người con đó nằm trong tình trạng nói trên.
Tuy nhiên, theo qui định của pháp luật thì ngoài việc được hưởng di sản của con theo luật thì cha mẹ có thể trở thành người thừa kế theo di chúc của con trong ba trường hợp sau. Thứ nhất, con đã đủ tuổi thành niên và có năng lực hành vi dân sự; Thứ hai, người con đó đã tròn 15 tuổi; thứ ba người con đó đã thành niên nhưng bị tàn tật. Cha mẹ chỉ có nghĩa vụ nuôi dưỡng con (người để lại di sản) trong hai trường hợp sau, vì vậy chỉ có thể tước quyền hưởng di sản của cha, mẹ trong hai trường hợp này nếu họ không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng đối với con.
Trong trường hợp cha, mẹ ly hôn cũng làm phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng của cha mẹ với con chưa thành niên hoặc con đã thành niên nhưng bị tàn tật bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc con đã thành niên nhưng không có khả năng để tự lao động, tự kiếm sống và không có tài sản để tự nuôi mình.
Có thể bạn quan tâm!
- Tiến Trình Phát Triển Những Qui Định Của Pháp Luật Về Người Không Được Quyển Hưởng Di Sản Ở Việt Nam Tứ Năm 1945 Đến Nay
- Những Trường Hợp Người Thừa Kế Không Có Quyển Hưởng Di Sản
- Người Vi Phạm Nghĩa Vụ Nuôi Dưỡng Người Để Lại Di Sản
- Người Bị Kết Án Về Hành Vi Cố Ý Xâm Phạm Đến Tính Mạng
- Một Số Vấn Đề Liên Quan Đến Điều 643 Bộ Luật Dân Sự Năm 2005
- Các trường hợp không được quyền hưởng di sản theo Bộ luật dân sự năm 2005 - 10
Xem toàn bộ 101 trang tài liệu này.
Khác với các loại nghĩa vụ cấp dưỡng khác, nghĩa vụ cấp dưỡng cho con là nghĩa vụ của cha mẹ nên không phân biệt người trực tiếp nuôi dưỡng
con có khả năng kinh tế hay không thì người không trực tiếp nuôi con vẫn phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng nuôi con cho đến khi con đủ 18 tuổi. Trường hợp cha mẹ người trực tiếp nuôi dưỡng với con mà trốn tránh nghĩa vụ đó thì bị buộc phải thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng, lúc này nghĩa vụ nuôi dưỡng chuyển hóa thành nghĩa vụ cấp dưỡng (khoản 2 Điều 50 Luật Hôn nhân và gia đình).
Cho nên nếu khi cha mẹ ly hôn với nhau mà các con đều đã thành niên và đều có khả năng lao động hoặc có tài sản để tự nuôi mình thì không làm phát sinh nghĩa vụ cấp dưỡng giữa cha mẹ và con.
Quan hệ nuôi dưỡng giữa bố dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng được qui định tại Điều 38 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 bố dượng, mẹ kế có nghĩa vụ và quyền trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con riêng sống chung với mình, con riêng có nghĩa vụ và quyền chăm sóc nuôi dưỡng bố mẹ kế cùng sống chung với mình. Như vậy con riêng và cha dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau thì được hưởng tài sản của nhau theo luật. Tuy nhiên thế nào chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con dựa trên cơ sở nào để đánh giá, việc chăm sóc nuôi dưỡng phải thực hiện từ hai phía hay chỉ từ một phía? Khi xảy ra tranh chấp quyền lợi giữa bố dượng, mẹ kế khó có cơ sở pháp lý để đảm bảo quyền lợi vì xung quanh họ có rất nhiều người có quan hệ thân thuộc, gần gũi trong diện thừa kế. Tương tự như vậy, nếu con riêng chứng minh được con riêng và cha dượng, mẹ kế nếu có quan hệ chăm sóc, nuôi dưỡng nhau như cha con, mẹ con thì con riêng cũng không thuộc diện thừa kế theo luật của những người khác trong họ hàng, thân thuộc của cha dượng, mẹ kế. Quan hệ giữa cha mẹ nuôi với con nuôi theo pháp luật: "Con nuôi có quyền lợi và nghĩa vụ như con đẻ" giữa người nuôi con nuôi và con nuôi có những quyền và nghĩa vụ của cha mẹ với các con theo qui định tại Điều 74 Luật Hôn nhân
và gia đình năm 2000". Giữa cha, mẹ nuôi và con nuôi có các quyền và nghĩa vụ của cha mẹ và con theo qui định của luật này kể từ thời điểm đăng ký việc nuôi con nuôi" Như vậy, quyền và nghĩa vụ quyền và lợi ích của con nuôi trên thực tế với quyền và lợi ích của người là cha nuôi, mẹ nuôi trong quan hệ thừa kế tài sản tương tự như quan hệ cha con, mẹ con. Vì vậy theo qui định của pháp luật khi con nuôi hoặc cha mẹ nuôi vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng với cha mẹ nuôi, con nuôi của họ thì họ sẽ không có quyền được hưởng thừa kế của cha, mẹ nuôi.
Truyền thống hiếu thảo, quyền lợi cũng như nghĩa vụ của cha mẹ với con cái không những được pháp luật thực định qui định mà vấn đề này cũng được ghi nhận trong luật tục của người êđê ở Tây Nguyên về quyền thừa kế của con, cháu cũng như hành vi của con, cháu không chăm sóc cha mẹ, ông bà. Nếu người con đẻ đã bỏ cha mẹ để cha mẹ sống cô đơn, không nơi nương tựa và không đoái hoài chăm sóc, khiến cha mẹ phải nhận con nuôi nhưng đã lợi dụng cha mẹ lúc ốm đau đã "cõng bế, cõng họ về nhà hắn, gánh luôn về nhà hắn những tất cả của cải của cha mẹ hắn". Hành vi của người con đẻ là hành vi lừa dối bị coi là kẻ có tội và phải trả lại phần tài sản của người mẹ để lại làm thừa kế cho người con gái nuôi. Việc nhận nuôi con nuôi của người đàn bà không có con đã nhận cháu gái của họ làm con nuôi cũng được qui định khá cụ thể trong luật tục này, khi người mẹ nuôi qua đời người con nuôi được hưởng thừa kế toàn bộ phần di sản của của người mẹ nuôi: "Của cải của bà ấy có bao nhiêu thì đều để lại cho người con mà bà ấy đã nuôi, tất cả mọi thứ đều thuộc về người con ấy" (Điều 106 Luật tục êđê). Nhưng khi người con không chăm lo công việc gia đình, không chăm sóc mẹ nuôi khi ốm đau thì người con nuôi không được hưởng tài sản của mẹ nuôi khi: "Không chăm lo công việc nương rẫy, không chăm sóc cho mẹ nuôi thuốc men, cúng lễ khi ốm đau, chỉ lo cho bản thân mình về kinh tế, khi mẹ nuôi chết không lo mai
táng và khi mẹ nuôi ốm cũng không chăm sóc". Như vậy về quyền và nghĩa vụ của con với cha mẹ đẻ, con nuôi với cha mẹ nuôi trong luật tục êđê rất tiến bộ, nếu người con đẻ hoặc con nuôi vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng cha mẹ thì họ không có quyền hưởng di sản của cha mẹ khi cha mẹ qua đời. Qui định này hoàn toàn phù hợp với chuẩn mực đạo đức của con người, dưới bất kỳ một xã hội nào các con, các cháu đều có nghĩa vụ, bổn phận kính trọng, chăm sóc thương yêu cha mẹ, ông bà, phụng dưỡng cha mẹ, ông bà khi cha mẹ, ông bà già yếu.
+ Nghĩa vụ nuôi dưỡng giữa các anh, chị, em.
Theo qui định tại Điều 48 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì anh, chị, em có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau trong trường hợp không còn cha, mẹ hoặc cha mẹ không có khả năng lao động và không có tài sản để cấp dưỡng cho con thì anh, chị đã thành niên không sống chung với em có nghĩa vụ cấp dưỡng cho em chưa thành niên không có tài sản để tự nuôi mình hoặc em đã thành niên mà không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình. Nghĩa vụ cấp dưỡng cũng được đặt ra đối với em đã thành niên không chung sống với anh, chị không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình.
+ Nghĩa vụ nuôi dưỡng giữa ông bà với cháu:
Ông bà nội, ngoại có nghĩa vụ nuôi dưỡng cháu trong trường hợp cháu chưa thành niên hoặc đã thành niên nhưng bị tàn tật, mất năng lực hành vi dân sự không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình đồng thời cũng không có cha mẹ, anh chị em có thể nuôi dưỡng được. Như vậy, cháu chỉ có thể được nhận cấp dưỡng từ ông bà khi có đủ ba điều kiện sau:
Thứ nhất: Nếu cháu là người chưa thành niên hoặc đã thành niên mà không có khả năng lao động chẳng hạn như bị tàn tật, bị mất năng lực hành vi dân sự. Đối với trường hợp cháu là người đã thành niên mà có khả năng lao
động thì dù túng thiếu cũng không có quyền được nhận cấp dưỡng từ phía ông bà của mình.
Thứ hai: Cháu không có tài sản để tự nuôi mình.
Thứ ba: Cháu phải là đối tượng không có người cấp dưỡng theo qui định tại Điều 58 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000, khi cháu không còn cha mẹ, anh chị em hoặc cha mẹ, anh chị em của cháu không có khả năng lao động và không có tài sản để cấp dưỡng cho con, em mình thì ông bà có nghĩa vụ cấp dưỡng cho cháu.
Cho nên nếu người để lại thừa kế là cháu nằm trong tình trạng trên mà ông, bà là người thừa kế nhưng không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng thì họ sẽ không được quyền hưởng di sản của cháu. Nếu người cháu có đủ năng lực hành vi để lập di chúc và trong di chúc đó ông bà được hưởng thừa kế theo di chúc nhưng sau đó người cháu lại lâm vào tình trạng cần được nuôi dưỡng và ông bà là người có nghĩa vụ đó nhưng không thực hiện nghĩa vụ thì ông bà cũng không được quyền hưởng di sản theo di chúc của người cháu.
+ Nghĩa vụ nuôi dưỡng giữa vợ và chồng:
Luật Hôn nhân và gia đình không qui định nghĩa vụ nuôi dưỡng giữa vợ và chồng mà chỉ xác định nghĩa vụ cấp dưỡng khi họ ly hôn, tuy nhiên ngoài trường hợp ly hôn giữa vợ và chồng cũng có nghĩa vụ nuôi dưỡng nhau trong trường hợp một bên ốm đau, tàn tật không thể tự lao động và không có thu nhập Vì vậy nếu vợ hoặc chồng không thực hiện nghĩa vụ nuôi dưỡng với nhau thì sẽ không có quyền được hưởng di sản thừa kế của người kia.
Trường hợp vợ hoặc chồng đã ly hôn với nhau bằng một bản án có hiệu lực pháp luật mà một bên chết thì họ không còn là người thừa kế theo luật của nhau nữa. Tuy nhiên họ vẫn có thể được hưởng di sản của người đã chết theo di chúc. Nghĩa vụ nuôi dưỡng không những phát sinh khi một bên không có khả năng lao động mà cả khi vợ chồng đã ly hôn với nhau mà khi một bên
túng thiếu hoặc không có khả năng lao động thì sẽ có quyền yêu cầu vợ hoặc chồng của mình thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng sau khi đã ly hôn. Tuy nhiên, việc cấp dưỡng sau khi vợ và chồng ly hôn mang tính mềm dẻo và ít cưỡng chế hơn các trường hợp cấp dưỡng khác bởi Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 không qui định về phương thức và mức cấp dưỡng mà người cấp dưỡng tự quyết định trong khả năng của mình. Đối với những người có nghĩa vụ nuôi dưỡng trong quan hệ với người để lại di sản, họ chỉ bị tước quyền hưởng di sản khi vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng đối với người để lại di sản cho dù hành vi đó không bị kết án. Hành vi vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng của người thừa kế đối với người để lại di sản như thế nào là nghiêm trọng? Bộ luật Dân sự năm 2005 không qui định cụ thể và cũng chưa có văn bản hướng dẫn để xác định như thế nào là nghiêm trọng. Để có sự thống nhất trong việc xác định tính nghiêm trọng của sự vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng, cần ban hành văn bản để hướng dẫn về vân đề này.
Như vậy, khi người thừa kế vi phạm nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản đã bị Tòa án kết án, hành vi của họ không những bị tước quyền thừa kế theo qui định tại điểm b khoản 1 Điều 643 Bộ luật Dân sự năm 2005, mà người thừa kế đó cỏn phải chịu trách nhiệm hình sự về những hành vi nguy hiểm cho xã hội mà họ đã gây ra. Điều 152 Bộ luật hình sự năm 1999 qui định:
Người nào có nghĩa vụ cấp dưỡng và có khả năng thực tế để thực hiện việc cấp dưỡng đối với người mà mình có nghĩa vụ cấp dưỡng theo qui định của pháp luật mà cố ý từ chối hoặc trốn tránh nghĩa vụ cấp dưỡng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm thì bị phạt cảnh cáo cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc bị phạt tù từ 3 tháng đến 2 nắm [24].
Bản án hình sự của Tòa án trong trường hợp này chính là cơ sở để pháp luật tước quyền hưởng di sản của người thừa kế.