chưa nhận thức được sự việc. Các đối tượng phạm tội thường lợi dụng mối quan hệ quen biết với nạn nhân hoặc lợi dụng khi nạn nhân ở một mình, ở những lợi vắng vẻ hoặc khó khăn về kinh tế để thực hiện tội phạm. Khi bị xâm phạm, nạn nhân thường bị tổn hại cả về vật chất lẫn tinh thần, khiến cho các em hoang mang, sợ sệt, thậm chí ảnh hưởng nghiêm trọng đến cuộc sống và tương lai các em, gia định nạn nhân thường cũng có xu hướng giấu không trình báo hoặc trình báo muộn gây khó khăn cho việc thu thập chứng cứ.
Thứ hai, là trung tâm chính trị, văn hóa, du lịch, Hà Nội hàng năm đón tiếp một số lượng lớn khách du lịch là người nước ngoại, tạo nên nguồn thu nhập đáng kể cho thành phố. Tuy nhiên, chính điều này cũng tạo ra môi trường cho những hành vi xâm hại tình dục trẻ em của người nước ngoài. Họ thực hiện tội phạm với thủ đoạn khá tinh vi. Chủ yếu là lợi dụng sự khó khăn, rủ rê, cho tiền các trẻ em để thực hiện các hành vi phạm tội.
Thứ ba, nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tội phạm là sự suy đồi nghiêm trọng về đạo đức, nhân cách của đối tượng, lợi dụng sự thiếu hiểu biết của các trẻ nhỏ, sự đua đòi, lêu lổng và thiếu quan tâm của gia đình nạn nhân nên đã bị người phạm tội lợi dụng. Một số trường hợp thực hiện hành vi giao cấu với trẻ em sau khi thỏa thuận với nạn nhân để trả một khoản tiền nhất định mà thực tiễn gọi là việc "cứu nét". Điều đáng quan ngại là thực trạng này vẫn diễn ra thường xuyên nhưng các cơ quan chức năng gần như là ngơ hoặc bất lực. Sự tồn tại của các quán internet công cộng nhưng không được kiểm soát này là môi trường thuận lợi để cho người phạm tội thực hiện tội phạm.
Thứ tư, công tác tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật của các cơ quan chức năng chưa thật tốt, những khó khăn, vướng mắc. Vì vậy tác giả chủ động đề ra một số giải pháp kiến nghị đề hoàn thiện pháp luật cũng như nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống các tội xâm phạm tình dục trẻ em trên địa bàn Hà Nội.
Chương 3
HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC ĐIỀU TRA, TRUY TỐ, XÉT XỬ CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM
3.1. SỰ CẦN THIẾT HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM
Bộ luật Hình sự năm 1999 đã được sửa đổi bổ sung năm 2009. Từ khi
ra đời đến nay, Bộ luật Hình sự là công cụ sắc bén của Nhà nước trong việc quản lý xã hội, phòng ngừa và đấu tranh chống tội phạm, góp phần quan trọng trong việc giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của các tổ chức và của công dân, góp phần có hiệu quả trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Tuy nhiên, sau hơn 12 năm thi hành, những hạn chế, bất cập phát sinh từ thực tiễn thi hành Bộ luật Hình sự cùng với những thay đổi to lớn trong đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước về cải cách tư pháp mà trọng tâm là tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật; về tiếp tục xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mà nội dung cơ bản là ghi nhận và bảo đảm thực hiện bằng pháp luật các quyền con người, quyền tự do cơ bản của công dân; về chủ trương chủ động hội nhập quốc tế của Việt Nam là những tiền đề quan trọng đặt nền tảng cho việc cần phải tiếp tục nghiên cứu sửa đổi Bộ luật Hình sự hiện hành nhằm đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống tội phạm trong hoàn cảnh mới. Bàn riêng về các tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em trong luật hình sự Việt Nam, sự cần thiết phải hoàn thiện các quy định của pháp luật hình sự về tội phạm này được thể hiện cụ thể như sau:
Có thể bạn quan tâm!
- Kinh Nghiệm Lập Pháp Một Số Nước Đối Với Các Tội Xâm Phạm Tình Dục Trẻ Em
- Đặc Điểm Kinh Tế, Xã Hội Của Thành Phố Hà Nội Có Ảnh Hưởng Đến Tình Hình Tội Phạm Xâm Phạm Tình Dục Trẻ Em
- Vấn Đề Về Chủ Thể Của Các Tội Xâm Phạm Tình Dục Trẻ Em
- Quy Định Lại Độ Tuổi Trẻ Em Là Nạn Nhân Của Tội Phạm
- Một Số Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Điều Tra, Truy Tố, Xét Xử Đối Với Các Tội Phạm Xâm Phạm Tình Dục Trẻ Em
- Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong luật hình sự Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội - 12
Xem toàn bộ 106 trang tài liệu này.
Thứ nhất: Tình hình tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em tiếp tục có những diễn biến phức tạp và những bất cập của Bộ luật Hình sự hiện hành là
cơ sở thực tiễn quan trọng của việc sửa đổi toàn diện của Bộ luật Hình sự. Tình hình tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em có xu hướng gia tăng về số lượng và để lại hậu quả hết sức nặng nề. Nhiều vụ có tính chất đặc biệt nghiêm trọng như: Hiếp dâm tập thể, hiếp dâm trẻ dưới 5 tuổi, cha dượng hiếp dâm con, thầy giáo xâm hại tình dục học trò nhiều lần, thậm chí cha đẻ hiếm dâm con gái…
Thứ hai: Trong pháp luật Việt Nam nói chung và trong luật hình sự nói riêng, mặc dù có những quy định khác nhau về độ tuổi chịu trách nhiệm hình sự, nhưng nhìn chung đều thừa nhận trẻ em là những người dưới 16 tuổi. Bộ luật Hình sự hiện hành của Việt Nam quy định các hành vi xâm hại trẻ em như: Hiếp dâm trẻ em, cưỡng dâm trẻ em, giao cấu với trẻ em, dâm ô với trẻ em, mua dâm người chưa thành niên... trong đó, có trường hợp hành vi nguy hiểm xâm phạm đến trẻ em được coi là tình tiết định tội, có trường hợp hành vi nguy hiểm xâm phạm đến người chưa thành niên được coi là tình tiết định khung tăng nặng hình phạt. Ngoài ra, hành vi xâm hại đến trẻ em còn được coi là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự nói chung, quy định tại điểm h Khoản 1 Điều 48 (tình tiết "phạm tội đối với trẻ em"). Như vậy, có thể nói Bộ luật Hình sự đã đưa ra nhiều quy định về tội phạm và hình phạt nghiêm khắc đối với những hành vi phạm tội mà bị hại là trẻ em giúp phòng ngừa và trừng trị những hành vi xâm hại đến trẻ em, bảo vệ trẻ em khỏi bị bạo lực, xâm hại tình dục, bóc lột về mại dâm và lao động, ma túy. Tuy nhiên, Luật bảo vệ và chăm sóc trẻ em đang trình Quốc hội dự kiến nâng độ tuổi trẻ em lên dưới 18 tuổi, do đó cần điều chỉnh lại tên một số tội danh cho phù hợp…
Tuy nhiên, thực tế tiến hành tố tụng vẫn còn một số vướng mắc cần được tháo gỡ như việc xác định tội danh, khung hình phạt đối với các trường hợp người phạm tội nhầm khách thể như không quen biết nạn nhân và nhìn thấy bề ngoài cơ thể nạn nhân phát triển hoàn chỉnh (ý thức chủ quan của người có hành vi xâm hại tưởng và cho rằng đối tượng bị xâm hại không phải
là trẻ em) và việc xác định chính xác tuổi của bị hại là người chưa thành niên khi bị hại không có bất cứ một giấy tờ gì chứng minh tuổi hoặc tuy có nhưng không đáng tin cậy.
Thứ ba: Bộ luật Hình sự hiện hành, mặc dù là kết quả của việc sửa đổi cơ bản, toàn diện Bộ luật Hình sự năm 1985, nhưng nhiều tội phạm mới phát sinh trong bối cảnh hiện nay chưa được kịp thời bổ sung hoặc tuy đã được bổ sung nhưng chưa đầy đủ, toàn diện như hành vi xâm phạm tình dục trẻ em qua đường du lịch, hành vi cưỡng bức mại dâm… Những hạn chế này đã ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển bình thường của trẻ em cũng như hiệu quả của công tác đấu tranh phòng chống tội phạm. Điều này đòi hỏi cần phải đổi mới tư duy trong việc hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình sự để Bộ luật Hình sự phải thể hiện đúng vai trò của mình; tạo hành lang pháp lý an toàn, đầy đủ để bảo vệ tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm của trẻ em.
Thứ tư: Sự phát triển, bổ sung và đề cao quyền con người, quyền cơ bản của công dân trong Hiến pháp 2013 đặt ra yêu cầu phải tiếp tục hoàn thiện các quy định của Bộ luật Hình sự hiện hành để làm cho các quyền này của người dân trong đó có trẻ em được thực hiện trên thực tế. Bộ luật Hình sự phải xử lý nghiêm các hành vi xâm hại các quyền con người, quyền cơ bản của công dân nêu trên. Đồng thời cũng cần nghiên cứu, đề xuất sửa đổi hệ thống hình phạt theo hướng tăng cường các hình phạt có tính giáo dục nhằm vừa bảo đảm tính răn đe nhưng cũng vẫn bảo đảm tạo điều kiện để người phạm tội có điều kiện sớm tái hòa nhập xã hội.
Thứ năm: Cùng với quá trình hội nhập quốc tế, nước ta cũng đang phải đối mặt với không ít khó khăn, thách thức trong đó có vấn đề tội phạm có tính chất quốc tế. Sự gia tăng của các loại tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, các tội phạm do người nước ngoài thực hiện trong những năm qua đã và đang đặt ra những thách thực rất lớn cho các cơ quan chức năng của Việt Nam. Tại Việt Nam, việc xâm hại tình dục trẻ em thông qua con đường du lịch đã
xuất hiện gắn với lượng khách du lịch nước ngoài vào Việt Nam ngày càng gia tăng trong khi đó Bộ luật Hình sự hiện hành chưa điều chỉnh hành vi này.
Từ sự phân tích trên có thể thấy, việc nghiên cứu sửa đổi, hoàn thiện quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam hiện hành về các tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em là hết sức cần thiết.
3.2. ĐỀ XUẤT HOÀN THIỆN CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT HÌNH SỰ VỀ CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRẺ EM
Pháp luật hình sự hiện hành cùng với những quy định về tội xâm
phạm tình dục trẻ em đã và đang phát huy vai trò của nó. Trong những năm vừa qua, có nhiều vụ án đã được đua ra ánh sáng, người phạm tội đã phải chịu trách nhiệm hình sự một cách nghiêm khắc.
3.2.1. Về định khung hình phạt trong trường hợp nạn nhân chưa đủ 13 tuổi trong tội hiếp dâm trẻ em
Trong trường hợp tội hiếp dâm trẻ em, nếu trong trường hợp nạn nhân dưới 13 tuổi, đồng thời lại có những tình tiết mô tả tại Khoản 2, Khoản 3 Điều 112 Bộ luật Hình sự thì có cần áp dụng tình tiết tại Khoản 2, Khoản 3 nữa không hay chỉ cần áp dụng Khoản 4 Điều 112.
Nếu xem xét không kĩ điều luật có thể gây ra việc hiểu sai rằng ở Khoản 4 có quy định "mọi trường hợp giao cấu với trẻ em dưới 13 tuổi…" tức là nhà làm luật đã dự liệu hết các khả năng thực tế có thể xảy ra nên người phạm tội trong trường hợp đã nêu ở đầu mục này chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự theo Khoản 4 Điều 112 Bộ luật Hình sự. Ví dụ: một người phạm tội hiếp dâm trẻ em dưới 13 tuổi và phạm tội có những tình tiết tăng nặng ở khoản 2, 3 Điều 112 Bộ luật Hình sự nhưng tòa án chỉ xác định nạn nhân dưới 13 tuổi mà không đề cập đến các tình tiết khác vì cho rằng người phạm tội đã bị áp dụng khoản 4 Điều 112 Bộ luật Hình sự rồi nên việc xác định các tình tiết khác không còn ý nghĩa nữa.
Việc xác định như vậy là chưa thực sự đúng đắn. Đúng là nếu một người phạm tội có nhiều tình tiết, trong đó có tình tiết quy định ở khung hình
phạt nặng, có tình tiết quy định ở khung hình phạt nhẹ thì tòa án chỉ áp dụng khung hình phạt nặng để quyết định hình phạt đối với người phạm tội. Tuy nhiên, phải xác định các tình tiết của vụ việc một cách đầy đủ và toàn diện để việc quyết định một hình phạt cụ thể cho người phạm tội được chính xác hơn. Như vậy, trong trường hợp đề ra ở đầu mục này thì xác định phạm tội thuộc Khoản 4, nhưng vẫn phải xem xét đến các tình tiết thuộc Khoản 2, Khoản 3 nếu có những tình tiết này trong vụ án. Tòa án nhân dân tối cao có công văn gửi Tòa án nhân dân tỉnh Bến Tre, trong đó hướng dẫn: Nếu phạm tội hiếp dâm trẻ em dưới 13 tuổi thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều 112 Bộ luật Hình sự thì cần xem xét tình tiết định khung hình phạt đó có được quy định là tình tiết tăng nặng tại khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự hay không; nếu là tình tiết tăng nặng được quy định tại khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự, thì Tòa án áp dụng khoản 4 Điều 112 Bộ luật Hình sự và các điểm tương ứng về các tình tiết tăng nặng quy định tại khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự để xử phạt bị cáo mức án tương xứng; nếu các tình tiết định khung đó không được quy định 1à tình tiết tăng nặng quy định tại khoản 1 Điều 48 Bộ luật Hình sự, thì cũng cần phải xem xét để đánh giá tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội mà xử phạt bị cáo mức hình phạt tương xứng tương tự như hướng dẫn tại điểm c Thông tư liên tịch số 01/1998/LTLT/TANDTC-VKSNĐTC-BNV ngày 02-01-1998. Tuy nhiên, cần lưu ý hướng dẫn này là để xử phạt mức hình phạt đối với bị cáo mà không phải để áp dụng các tình tiết định khung hình phạt.
3.2.2. Về việc xác định ý thức chủ quan của người phạm tội đối với việc nhận thức nạn nhân là trẻ em trong các tội xâm phạm tình dục trẻ em
Về mặt chủ quan của tội phạm, hành vi hiếp dâm trẻ em, giao cấu với trẻ em được thực hiện theo lỗi cố ý trực tiếp của người phạm tội. Người phạm tội nhận thức rõ tính nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội của mình trên cơ sở nhận thức được tính chất của hành vi khách quan và đối tượng tác động. Trong thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự, việc chứng minh ý thức chủ
quan của người phạm tội Hiếp dâm trẻ em nhìn chung khá phức tạp. Ở độ tuổi này nhiều em đã dậy thì, lại thêm đầy đủ về điều kiện dinh dưỡng, nên các em phát triển nhanh về thể chất, và do vậy bề ngoài các em có thể cao lớn như người đã thành niên, tác phong xử sự giống như người lớn (vì ở lứa tuổi các em là lứa tuổi đang bắt chước, tập làm người lớn). Mặt khác, bản thân nạn nhân có thể che giấu hoặc nói sai độ tuổi của mình làm cho người phạm tội lầm tưởng nạn nhân là người đã thành niên và thực hiện hành vi giao cấu. Vậy trong trường hợp này để định tội danh một cách chính xác, các cơ quan có thẩm quyền cần giải quyết như thế nào? Hiện nay có hai quan điểm về vấn đề này:
- Quan điểm thứ nhất cho rằng, việc định tội danh trong trường hợp này chỉ căn cứ vào tuổi thực của nạn nhân, chỉ cần xác định nạn nhân dưới 16 tuổi mà không cần xác định chủ thể của tội phạm có biết nạn nhân là trẻ em hay không [1, tr. 176]. Quan điểm này cũng cho rằng, trẻ em là đối tượng của tội phạm, nằm trong mặt khách quan của tội phạm, do đó việc chỉ cần xác định nạn nhân là trẻ em không phải là biểu hiện của việc quy tội khách quan. Quan điểm này đảm bảo được tuyệt đối chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta là bảo vệ trẻ em và người chưa thành niên khỏi hành vi xâm phạm tình dục nói chung và hành vi hiếp dâm trẻ em nói riêng. Mọi hành vi hiếp dâm trẻ em đều phải bị trừng trị nghiêm khắc.
- Quan điểm thứ hai cho rằng, việc xác định tội danh trong trường hợp này phải căn cứ vào cả tuổi thực của nạn nhân (còn trong độ tuổi trẻ em) và ý thức chủ quan của người phạm tội, tức là họ phải nhận biết được nạn nhân là trẻ em [18, tr. 36-39]. Quan điểm này cho rằng việc không quan tâm đến người phạm tội có ý thức được nạn nhân là trẻ em hay không là một biểu hiện của việc quy tội khách quan, không đảm bảo một cách đầy đủ nguyên tắc có lỗi của người phạm tội. Theo quy định của Bộ luật Hình sự thì lỗi của người phạm tội trong các tội xâm phạm tình dục trẻ em nói chung và tội hiếp dâm trẻ em nói riêng đều là lỗi cố ý trực tiếp. Điều đó đòi hỏi người phạm tội phải
biết nạn nhân là trẻ em. Nếu người phạm tội có sự sai lầm về đặc điểm nạn nhân là trẻ em thì đồng nghĩa với việc loại trừ lỗi cố ý. Việc buộc một người không nhận thức được đối tượng mà mình xâm hại là trẻ em là biểu hiện của việc truy tội khách quan, điều mà luật hình sự Việt Nam không chấp nhận.
Trên lý thuyết, quan điểm này hoàn toàn phù hợp với các quy định khác của luật hình sự Việt Nam, đảm bảo được tính nghiêm minh của pháp luật cũng như các nguyên tắc của luật hình sự. Tuy nhiên, như trên đã nói, việc xác định ý thức chủ quan của người phạm tội về việc có nhận biết được nạn nhân là trẻ em hay không là rất phức tạp và trong một số trường hợp là không thể xác định được. Trên thực tế, có rất nhiều trường hợp người phạm tội không quan tâm nạn nhân có phải là trẻ em hay không mà chỉ thực hiện tội phạm do không kiềm chế được, hoặc nhằm thỏa mãn nhu cầu sinh lý. Trong trường hợp này nếu theo quan điểm thứ hai thì người thực hiện hành vi hiếp dâm mà nạn nhân là trẻ em sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội hiếp dâm trẻ em do không thỏa mãn dấu hiệu về lỗi (nếu xét về lỗi, sẽ là lỗi cố ý gián tiếp trong trường hợp này, tức là không thỏa mãn lỗi cố ý trực tiếp trong cấu thành của tội hiếp dâm trẻ em). Mà trong khi đó, hậu quả gây ra cho xã hội trong trường hợp này cũng không kém so với những hành vi hiếp dâm trẻ em mà người phạm tội biết nạn nhân là trẻ em. Do vậy, quan điểm thứ nhất áp dụng trên thực tế sẽ hợp lý hơn, chỉ cần xác định nạn nhân là trẻ em chứ không cần xác định người phạm tội có biết nạn nhân là trẻ em hay không. Tuy nhiên, trong trường hợp do lỗi của nạn nhân mà người phạm tội nhầm lẫn rằng nạn nhân không phải là trẻ em thì việc quyết định hình phạt là nhẹ hơn trường hợp thông thường.
3.2.3. Về đặc điểm giới tính của chủ thể của tội hiếp dâm trẻ em, tội cưỡng dâm trẻ em
Hiện nay, việc xác định chủ thể của tội hiếp dâm trẻ em, tội giao cấu với trẻ em vẫn theo Bản tổng kết 239/HS2 ngày 11/5/1967. Thông qua định