kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án). Đối với vụ án hình sự, hoạt động kiểm sát được thực hiện trong tất cả các giai đoạn tố tụng (khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, thi hành bản án hình sự) và đối tượng phải chịu sự kiểm tra giám sát là tất cả các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng, trong đó có cả hoạt động công tố (buộc tội) của Viện kiểm sát và Kiểm sát viên. Mặt khác, quan điểm (buộc tội) là quan điểm riêng của cơ quan thực hành quyền công tố và Công tố viên, quan điểm này có thể đúng có thể chưa đúng vì tại phiên tòa quan điểm đó có thể được Hội đồng xét xử chấp nhận toàn bộ, chấp nhận một phần hay không chấp nhận (tuyên bị cáo không có tội; bác bỏ chứng cứ buộc tội do vi phạm tố tụng...). Như vậy hiện nay chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật đối với chính hoạt động của cơ quan thực hành quyền công tố và Công tố viên không có ai (Công thể, cá nhân) thực hiện tại phiên tòa.
- Tòa án nhân dân: giải pháp chung trong chiến lược cải cách tư pháp đối với hoạt động xét xử là xây dựng, hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Tòa án nhân dân các cấp, đổi mới việc tổ chức phiên tòa xét xử, xác định rõ hơn vị trí, quyền hạn, trách nhiệm của người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng theo hướng bảo đảm tính công khai, dân chủ, nghiêm minh; nâng cao chất lượng tranh tụng tại các phiên tòa xét xử, coi đây là khâu đột phá của hoạt động tư pháp. Giải pháp trước mắt cần phải kiện toàn về bộ máy tổ chức Tòa án nhất là cấp cơ sở cho phù hợp; bố trí người có đủ điều kiện vào những chức danh lãnh đạo, chức danh chủ chốt của đơn vị còn thiếu; bổ sung đủ biên chế Thẩm phán, Thư ký, Hội thẩm nhân dân đảm bảo cho hoạt động xét xử các loại vụ án đúng thời hạn luật định; đầu tư cơ sở vật chất cho các cấp Tòa án, nhất là đầu tư cho khu vực xét xử (phòng xét xử, phòng nghị án, phòng chờ của Kiểm sát viên, Luật sư, bị cáo...) để phiên tòa đảm bảo tính công khai, dân chủ, nghiêm minh.
Đối với việc cao chất lượng xét xử đối với các vụ án hình sự có tội
danh xâm phạm tình dục trẻ em, ngoài những giải pháp chung mang tính đồng
bộ, Tòa án nhân dân tối cao cần tiến hành việc tổng kết thực tiễn để rút ra những đặc điểm, hướng dẫn và đề ra những yêu cầu đối với Tòa án cấp sơ thẩm trong công tác xét xử đối với loại vụ án này. Các cấp Tòa án cần thường xuyên tổ chức hội thảo, trao đổi, rút kinh nghiệm về nghiệp vụ trong nghiên cứu hồ sơ, đánh giá chứng cứ, kỹ năng xét xử, định tội danh và lượng hình phạt đối với những vụ án có tội danh xâm hại trẻ em. Mặt khác, để tổ chức tốt hoạt động xét xử Tòa án cần có sự phối hợp chặt chẽ với các cơ quan tiến hành tố tụng (Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát) các cơ quan bổ trợ tư pháp (giám định, luật sư) và chính quyền địa phương trong việc hoàn chỉnh hồ sơ vụ án, triệu tập người tham gia tố tụng có mặt đầy đủ tại phiên tòa giúp cho việc làm rõ sự thật khách quan vụ án, chứng minh tội phạm và áp dụng đúng pháp luật.
- Các cơ quan bổ trợ tư pháp: Cần được từng bước củng cố và hoàn thiện cả về tổ chức và cơ chế hoạt động. Đào tạo, phát triển đội ngũ luật sư đủ về số lượng, có phẩm chất chính trị, đạo đức và trình độ chuyên môn. Hoàn thiện cơ chế đảm bảo để luật sư thực hiện tốt việc tranh tụng tại phiên tòa, đồng thời xác định rõ chế độ trách nhiệm đối với luật sư. Nhà nước tạo điều kiện để phát huy chế độ tự quản của tổ chức luật sư; đề cao trách nhiệm của các tổ chức luật sư đối với thành viên của mình. Hoàn thiện chế định giám định tư pháp. Nhà nước cần đầu tư cho một số lĩnh vực giám định để đáp ứng yêu cầu thường xuyên của hoạt động tố tụng. Thực hiện xã hội hóa đối với các lĩnh vực có nhu cầu giám định không lớn, không thường xuyên. Quy định chặt chẽ, rõ ràng về trình tự, thủ tục, thời hạn trưng cầu và thực hiện giám định. Ban hành quy chuẩn giám định phù hợp với từng lĩnh vực. Xác định rõ cơ chế đánh giá kết luận giám định, đảm bảo đúng đắn, khách quan để làm căn cứ giải quyết vụ việc. Trước mắt, cần bổ sung đội ngũ cán bộ có đạo đức và năng lực, tăng cường cơ sở vật chất và các điều kiện cần thiết khác cho các cơ quan bổ trợ tư pháp nhất là công tác giám định tư pháp đối với các tội
phạm về tình dục ở những địa bàn nông thôn, vùng sâu, vùng đồng bào dân tộc đảm bảo tính kịp thời cũng như chất lượng giám định phục vụ cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử vụ án có tội danh xâm phạm tình dục trẻ em.
- Chính quyền cơ sở và các cơ quan nhà nước hữu quan: Cần quan tâm, đẩy mạnh và nâng cao hơn nữa về chất lượng công tác quản lý nhà nước trong phạm vi chức trách, nhiệm vụ của mình có liên quan đến người bị hại là trẻ em (khai sinh, hộ tịch, hồ sơ cá nhân, các điều kiện về sinh sống và học tập, cũng như đảm bảo các quyền của trẻ em). Có sự phân định trách nhiệm một cách cụ thể và tăng cường hơn nữa mối quan hệ phối hợp với các cơ quan tiến hành tố tụng, tạo điều kiện cho công tác tống đạt giấy tờ, triệu tập, xác minh, thu thập tài liệu, chứng cứ giúp cho việc giải quyết các vụ án hình sự có tội danh xâm phạm tình dục trẻ em được nhanh chóng, đúng pháp luật.
Thứ hai, các cơ quan tiến hành tố tụng, nhất là Cơ quan điều tra cần phối hợp với cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội để làm tốt công tác thuyết phục người bị hại là trẻ em và gia đình có trẻ em là người bị hại, để họ giúp đỡ trong việc thu thập chứng cứ của vụ án hình sự.
Trong những vụ án hình sự về các tội phạm xâm phạm tình dục trẻ em, nhất là những tội phạm như hiếp dâm, cưỡng dâm, giao cấu với trẻ em, dâm ô với trẻ em v.v…, các cơ quan tiến hành tố tụng, nhất là Cơ quan điều tra gặp rất nhiều khó khăn trong việc thu thập chứng cứ chứng minh tội phạm và người phạm tội do sự không hợp tác đầy đủ của gia đình và thân nhân của người bị hại là trẻ em. Do suy nghĩ không đầy đủ của gia đình và thân nhân của người bị hại sợ ảnh hưởng đến quá trình trưởng thành của trẻ em mà họ đã không hợp tác đầy đủ trong việc thu thập chứng cứ. Chính vì vậy, để khắc phục được tình trạng này đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng, nhất là Cơ quan điều tra cần phối hợp với cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội để làm tốt công tác thuyết phục gia đình có trẻ em là người bị hại để họ giúp đỡ trong việc thu thập chứng cứ của vụ án hình sự. Tuy nhiên việc thuyết phục gia đình
Có thể bạn quan tâm!
- Sự Cần Thiết Hoàn Thiện Pháp Luật Về Các Tội Xâm Phạm Tình Dục Trẻ Em
- Quy Định Lại Độ Tuổi Trẻ Em Là Nạn Nhân Của Tội Phạm
- Một Số Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Điều Tra, Truy Tố, Xét Xử Đối Với Các Tội Phạm Xâm Phạm Tình Dục Trẻ Em
- Các tội xâm phạm tình dục trẻ em trong luật hình sự Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn địa bàn thành phố Hà Nội - 13
Xem toàn bộ 106 trang tài liệu này.
và thân nhân của người bị hại cung cấp chứng cứ vụ án cần được tổ chức thực hiện một cách khéo léo như:
- Đề nghị người có trách nhiệm trong cơ quan (chính quyền, nhà trường), hoặc tổ chức (phụ nữ, thanh niên…) giúp đỡ bằng cách thuyết phục gia đình và thân nhân của người bị hại. Phân tích để cho họ hiểu chính sách của Nhà nước về bảo vệ trẻ em, các quy định của pháp luật được áp dụng đối với người phạm tội, từ đó họ có sự hợp tác tích cực với các cơ quan tiến hành tố tụng;
- Giữ kín nội dung vụ án, không được để lan rộng, trách gây nên những dư luận xấu trong địa phương nơi có người bị hại là trẻ em sinh sống, học tập. Do vậy, mọi việc làm của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án cần hết sức khéo léo trong việc thuyết phục gia đình và thân nhân người bị hại là trẻ em để họ giúp đỡ các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ, chứng minh tội phạm, cũng như các biện pháp bảo vệ và bảo đảm quyền của người bị hại là trẻ em;
- Các cơ quan tiến hành tố tụng cần đưa ra những quyết định, liên quan đến việc yêu cầu các cơ quan y tế địa phương áp dụng các biện pháp chăm sóc sức khỏe người bị hại là trẻ em như khám chữa bệnh, điều trị những thương tích trên thân thể, can thiệp với nhà trường để tạo điều kiện tốt nhất cho người bị hại là trẻ em hòa nhập với cuộc sống cũng như việc học tập tại trường v.v...
Bằng những việc làm này, các cơ quan tiến hành tố tụng cũng thuyết phục gia đình giúp đỡ các cơ quan tiến hành tố tụng trong việc giải quyết vụ án liên quan đến người bị hại là trẻ em.
Thứ ba, những giải pháp nâng cao trình độ, năng lực và trách nhiệm người tiến hành tố tụng, khi giải quyết vụ án hình sự có tội danh xâm phạm tình dục trẻ em.
Giải pháp mang tính định hướng nâng cao trình độ, năng lực của người tiến hành tố tụng là: Tiếp tục đổi mới nội dung, phương pháp đào tạo cử nhân luật, đào tạo cán bộ nguồn của các chức danh tư pháp; bồi dưỡng cán
bộ tư pháp theo hướng cập nhật các kiến thức mới về chính trị, pháp luật, kinh tế và xã hội; nâng cao kỹ năng nghề nghiệp và kinh nghiệm thực tiễn; có phẩm chất, đạo đức trong sạch, dũng cảm đấu tranh vì công lý, bảo vệ pháp chế xã hội chủ nghĩa; có cơ chế thu hút tuyển chọn những người có tâm huyết, đủ điều kiện vào làm việc ở các cơ quan tư pháp; thực hiện cơ chế thi tuyển để chọn người bổ nhiệm vào các chức danh tư pháp; có chế độ, chính sách về tiền lương, khen thưởng phù hợp với lao động của cán bộ có chức danh tư pháp.
Ngoài những giải pháp chung, để nâng cao trình độ, năng lực của người tiến hành tố tụng trong vụ án hình sự có tội danh xâm phạm tình dục trẻ em cần phải thực hiện một số giải pháp cụ thể sau đây:
- Trang bị kiến thức khoa học về sự phát triển thể chất, tâm lý trẻ em, nắm vững kiến thức pháp luật liên quan đến bảo vệ quyền trẻ em. Yêu cầu đối với người tiến hành tố tụng tham gia giải quyết vụ án hình sự có tội danh xâm phạm tình dục trẻ em phải là những người có hiểu biết và có kinh nghiệm thực tế về tâm lý học, khoa học giáo dục, kiến thức xã hội liên quan đến trẻ em. Muốn vậy, cần soạn thảo và bổ sung vào giáo trình, tài liệu giảng dạy những kiến thức về sự phát triển thể chất, nhận thức, tâm lý và quan hệ xã hội của trẻ em cũng như các quyền và nghĩa vụ của trẻ em theo quy định của pháp luật trong các trường đào tạo chức danh tư pháp (Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Thư ký tòa án). Bên cạnh đó, Hội đồng nhân dân (cấp huyện và cấp tỉnh thành phố trực thuộc Trung ương) cần lựa chọn và bầu một số Hội thẩm nhân dân đã và đang công tác ở những cơ quan, tổ chức, đoàn thể liên quan đến việc bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em (Đoàn thanh niên, Hội liên hiệp phụ nữ, giáo viên) để tham gia giải quyết các vụ án hình sự có tội danh xâm phạm tình dục trẻ em.
- Chuyên môn hóa đối với những người tiến hành tố tụng, nhất là Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm giải quyết vụ án hình sự liên quan đến người chưa thành niên nói chung và trẻ em nói riêng. Có như vậy, những người tiến hành tố tụng mới có kiến thức về tâm, sinh lý trẻ em, những
kinh nghiệm trong việc giải quyết vụ án hình sự liên quan đến trẻ em và những hiểu biết khác.
- Rèn luyện phẩm chất tâm lý và nâng cao kỹ năng thực hiện các hành vi tố tụng của người tiến hành tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự có tội danh xâm phạm tình dục trẻ em. Bên cạnh những tiêu chuẩn về trình độ và phẩm chất đạo đức, nếu người tiến hành tố tụng có phẩm chất tâm lý bình tĩnh, thận trọng và vô tư (được biểu lộ trong lời nói, điệu bộ, cách cư xử và hành vi) khi thực hiện hành vi tố tụng một mặt giúp cho việc giao tiếp tư pháp (trong xác minh; thu thập chứng cứ) đạt hiệu quả cao hơn, mặt khác giúp cho người tiến hành tố tụng luôn chủ động, phán đoán, suy luận logic và có niềm tin nội tâm (trong xây dựng các giả thuyết điều tra; lập kế hoạch điều tra; đánh giá chứng cứ, chứng minh tội phạm và áp dụng pháp luật) được khách quan, chính xác, công bằng.
Chiến lược cải cách tư pháp đã đề ra giải pháp "Tăng quyền hạn, trách nhiệm tố tụng của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán để họ chủ động thực thi nhiệm vụ, nâng cao tính độc lập và chịu trách nhiệm trong hoạt động tố tụng" [14]. Trách nhiệm hay nghĩa vụ là một khái niệm mang màu sắc pháp lý, tuy vậy lại là một tố chất của đạo đức nghề nghiệp. Xét ở phương diện luật học người ta nói nghĩa vụ đi đôi với quyền lợi thì ở phương diện đạo đức, người ta đề cao tinh thần trách nhiệm mà không gắn với quyền lợi. Trách nhiệm ở đây thể hiện trước hết là việc xác định và thực hiện đúng chức trách, nhiệm vụ và quyền hạn của bản thân người tiến hành tố tụng được pháp luật (Bộ luật Tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật có liên quan) quy định, đồng thời trách nhiệm còn thể hiện bởi tính nghiêm túc, thận trọng, vô tư, khách quan, toàn diện của người tiến hành tố tụng khi thực hiện hành vi tố tụng. Liên quan đến giải quyết vụ án hình sự mà người bị hại là trẻ em, trách nhiệm của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán chính là trách nhiệm nghề nghiệp. Nói cách khác, đó chính là việc thực hiện đúng các quy định của pháp luật về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn, là sự tận tụy trong công việc, sự chu đáo, cẩn trọng khi thực hiện các hành vi tố tụng liên quan đến giải quyết vụ án hình sự mà người bị hại là trẻ em. Bên cạnh đó, để nâng cao hơn nữa trách nhiệm của mình trong thực hiện các hành vi tố tụng đòi hỏi mỗi người tiến hành tố tụng đều phải tự ý thức được công việc mình đang làm liên quan đến bảo vệ trẻ em. Người tiến hành tố tụng có trách nhiệm ý thức được rằng hành vi của mình không phải chỉ liên quan đến một người, một tổ chức trong xã hội mà có thể còn liên quan đến nhiều người, nhiều gia đình, nhiều tổ chức trong xã hội. Nếu một Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán có trình độ chuyên môn nghiệp vụ cao, có bản lĩnh nghề nghiệp vững vàng nhưng thiếu tinh thần trách nhiệm trong việc giải quyết vụ án hình sự liên quan đến người bị hại là trẻ em thì không thể nói đó là một người người tiến hành tố tụng có đạo đức nghề nghiệp. Chỉ vì một chút thiếu trách nhiệm trong điều tra, xác minh thu thập chứng cứ, chứng minh buộc tội, xét xử, ra bản án hoặc quyết định thì cũng có thể sẽ gây ra những hậu quả không lường trước được, không chỉ không bảo vệ được trẻ em, mà còn có thể gây ảnh hưởng rất xấu đến sự trưởng thành của trẻ em.
Thứ tư, Nhà nước cần có sự quan tâm đến đời sống vật chất và tinh thần đối với người tiến hành tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự có người bị hại là trẻ em
Chính sách tiền lương, khen thưởng phù hợp với sức lao động của người tiến hành tố tụng hình sự, cũng là một trong những giải pháp mang tính chiến lược, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự có tội danh xâm phạm tình dục trẻ em.
Xuất phát từ đặc điểm lao động của người tiến hành tố tụng là lao động trí não, đầy khó khăn, phức tạp đặt dưới sự giám sát nghiêm ngặt của xã hội, của công dân. Lao động của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân là cả một quá trình hoạt động tư duy: Phân tích, tổng hợp, chứng minh, biện giải trên cơ sở các quy định của pháp luật và thực tiễn của vụ
án. Hoạt động (lao động) của người tiến hành tố tụng phải chịu nhiều áp lực từ phía các phần tử tội phạm đi liền với những tiêu cực như dụ dỗ mua chuộc, đe dọa, khống chế và trả thù đối với bản thân, gia đình và người thân của họ, đồng thời còn phải chịu áp lực từ phía xã hội và công luận. Người tiến hành tố tụng hình sự là người đại diện cho Nhà nước và hoạt động tố tụng gắn liền với việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế liên quan đến sinh mệnh của một con người, vì vậy trách nhiệm đòi hỏi Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân là rất lớn. Theo qui định Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán không được tham gia các hoạt động kinh doanh, dịch vụ, tư vấn pháp luật có liên quan đến nghề nghiệp vì vậy ngoài đồng lương ra họ không có thu nhập nào khác, nếu so với mặt bằng sinh hoạt của xã hội thì họ chưa tự nuôi nổi bản thân mình (riêng Điều tra viên trong cơ quan điều tra được hưởng lương của lực lượng vũ trang). Thực tế cho thấy, nhiều sinh viên tốt nghiệp đại học luật chính quy không thiết tha thi vào ngành Kiểm sát, Tòa án. Đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng thiếu và yếu cán bộ hiện nay. Từ thực tế nêu trên, đề nghị cần nghiên cứu và điều chỉnh thang bậc lương và các chế độ chính sách khác phù hợp với chức năng nhiệm vụ và đặc thù công tác đối với Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, nhất là cấp cơ sở để làm sao cho họ có thể tự nuôi sống bản thân và gia đình của họ. Cần có chính sách ưu đãi đối với cán bộ ở vùng sâu, vùng xa. Xuất phát từ đặc thù nghề nghiệp, vì vậy cần có những biện pháp tích cực nhằm bảo vệ tính mạng, sức khỏe và tài sản cho những người tiến hành tố tụng. Các biện pháp bảo vệ gồm: Biện pháp về an ninh được các cơ quan chức năng áp dụng khi có căn cứ chứng tỏ có sự đe dọa tính mạng, sức khỏe và tài sản của Điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán (tạm thời di chuyển đến nơi an toàn; trang bị phương tiện, công cụ hỗ trợ; bảo đảm bí mật lý lịch, đời tư; bảo đảm an toàn cho gia đình thân nhân của họ). Biện pháp về mặt xã hội như bảo hiểm tính mạng, sức khỏe; các khoản tiền trợ cấp. Biện pháp pháp lý là các quy định của chế tài hình sự có liên quan đến hành vi xâm hại đến hoạt động tư pháp, trong đó có người tiến hành tố tụng.