Các Yêu Cầu Bảo Đảm Quyết Định Hình Phạt Đúng Đối Với Các Tội Xâm Phạm Tình Dục

2.3.2. Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót

Những hạn chế, thiếu sót trong quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục nêu trên xuất phát từ nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan khác nhau.

- Nguyên nhân khách quan:

Quyết định hình phạt quá nặng hoặc quá nhẹ hoặc không công bằng giữa các tội phạm có hành vi phạm tội tương tự nhau xuất phát từ những bất cập trong quy định của pháp luật hình sự, cụ thể như sau:

Một là, quy định về biên độ hình phạt trong các tội phạm nói chung và các tội tình dục xâm phạm tình dục nói riêng còn quá rộng. BLHS năm 2015 quy định nhiều khung hình phạt khác nhau đối với các tội xâm phạm tình dục tại Điều 141 đến Điều 147. Trong đó, phổ biến là các khung hình phạt tù từ 1 – 5 năm, 3 – 10 năm, 7 – 15 năm, 12 – 20 năm… Những biên độ hình phạt rộng như vậy một mặt tạo sự linh hoạt cho Hội đồng xét xử khi quyết định hình phạt, nhưng trái lại cũng là yếu tố dễ dẫn đến sự tùy nghi mang tính chủ quan cho Tòa án. Chẳng hạn, điểm a khoản 3 Điều 141 BLHS năm 2015 quy định nếu người phạm tội hiếp dâm thuộc trường hợp “Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61 % trở lên” thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. Như vậy, một người thực hiện hành vi phạm tội này như thế nào thì bị tuyên phạt 12 năm tù, đến mức như thế nào thì bị tuyên phạt 20 năm tù? Vấn đề này hoàn toàn do Hội đồng xét xử cân nhắc quyết định. Vì thế, khi nghị án, Hội đồng xét xử có thể đưa ra các tình tiết của vụ án gây bất lợi hoặc có lợi cho người phạm tội, từ đó lượng hình theo ý thức chủ quan dẫn đến sự chênh lệch trong phán quyết của từng thẩm phán khác nhau.

Hai là, một số quy định của BLHS hiện hành liên quan đến quyết định hình phạt còn tùy nghi dẫn đến cách hiểu và áp dụng chưa thống nhất, chưa đồng bộ. Ví dụ, quy định về căn cứ thứ hai của việc quyết định hình phạt “cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội” tại khoản 1

Điều 50 BLHS năm 2015 chưa cụ thể, rò ràng nên trong thực tiễn áp dụng Tòa án nhân dân các cấp tại Đồng Nai vẫn còn thiếu thống nhất trong việc cân nhắc căn cứ này khi quyết định hình phạt. Hoặc là quy định về một số tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS tại Điều 51 và Điều 52 BLHS năm 2015 mới chỉ nêu khái quát tên các tình tiết mà chưa có sự giải thích cụ thể. Chính vì cách quy định thiếu cụ thể như vậy nên dễ tạo kẽ hở để những người có thẩm quyền tùy nghi áp dụng khi quyết định hình phạt. Đây là yếu tố thuộc về nguyên nhân khách quan vì BLHS chưa quy định tiêu chí cụ thể cho việc đánh giá những căn cứ, tình tiết này.

Ba là, bất cập trong quy định về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng

Khoản 1 Điều 54 BLHS năm 2015 quy định: “Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 Bộ luật này”. Thông thường, các khung hình phạt trong những điều luật thuộc Phần các tội phạm được sắp xếp theo trật tự từ nhẹ đến nặng hoặc từ nặng đến nhẹ. Điều này dễ dàng cho việc xác định khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật. Thế nhưng, trong một số trường hợp các khung hình phạt của các tội xâm phạm tình dục không được sắp xếp theo một trật tự nhất định nên việc áp dụng khoản 1 Điều 54 BLHS năm 2015 để quyết định hình phạt là rất khó khăn. Ví dụ: Điều 141 BLHS năm 2015 có bốn khung hình phạt chính tương ứng với khoản 1, 2, 3, 4 nhưng lại không tuân theo trật tự nhất định. Cụ thể, khung hình phạt tại khoản 1 nhẹ hơn khoản 2, khoản 2 nhẹ hơn khoản 3 nhưng khoản 3 lại nặng hơn khoản 4. Giả sử một người phạm tội hiếp dâm theo khoản 4 Điều 141 BLHS năm 2015 (có khung hình phạt tù từ 5 năm đến 10 năm tù) và có đủ điều kiện để áp dụng khoản 1 Điều 54 BLHS năm 2015 thì trong trường hợp này, Tòa án phải quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung nhưng phải trong khung liền kề nhẹ hơn là khoản nào? Bởi vì, khung hình phạt liền kề của khoản 4 thì phải là khoản 3 nhưng

khoản 3 lại quy định khung hình phạt nặng hơn (phạt tù từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân). Trường hợp này, Tòa án cũng không thể chuyển qua áp dụng khoản 2 Điều 141 BLHS năm 2015 được vì khoản 2 cũng quy định khung hình phạt nặng hơn khoản 4 (phạt tù từ 7 năm đến 15 năm). Chỉ có khung hình phạt tại khoản 1 Điều 141 BLHS năm 2015 (phạt tù từ 2 năm đến 7 năm) là thấp hơn khoản 4 nhưng đây không phải là khung hình phạt liền kề của khoản 4 nên theo đúng quy định tại khoản 1 Điều 54 BLHS năm 2015 thì Tòa án cũng không thể áp dụng khung hình phạt tại khoản 1 Điều 141 BLHS năm 2015 được [32, tr.35-42]. Vấn đề này cũng xảy ra tương tự với quy định tại khoản 4 Điều 143 về tội cưỡng dâm.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 81 trang tài liệu này.

Khoản 2 Điều 54 BLHS năm 2015 quy định về trường hợp Tòa án quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung liền kề, theo đó: “Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu, là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể”. Đây là quy định mới thể hiện tính nhân đạo, khoan hồng của pháp luật có ý nghĩa nhằm tháo gỡ những vướng mắc trong thực tiễn xét xử của Tòa án đối với trường hợp lần đầu phạm tội, là người giúp sức, có vai trò không đáng kể trong vụ án đồng phạm, nhưng bị truy tố và xét xử ở khung hình phạt nặng cùng các đồng phạm khác. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 54 BLHS năm 2015 cũng không quy định rò trong trường hợp này có cần thỏa mãn điều kiện có từ hai tình tiết giảm nhẹ giống quy định tại khoản 1 Điều luật này hay không [16]. Hiện nay có hai quan điểm khác nhau về vấn đề này. Quan điểm thứ nhất cho rằng không nhất thiết người phạm tội phải có đủ ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS mà họ chỉ cần thỏa mãn điều kiện “Người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể” là Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung liền

kề. Quan điểm thứ hai cho rằng việc áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 54 không được tùy tiện mà luôn phải đảm bảo nguyên tắc bắt buộc là có từ 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS. Hơn nữa, khoản 3 Điều 17 BLHS năm 2015 chỉ quy định “Người giúp sức là người tạo điều kiện tinh thần hoặc vật chất cho việc thực hiện tội phạm” chứ hiện nay chưa có văn bản nào hướng dẫn để xác định “vai trò không đáng kể” của người giúp sức trong vụ án đồng phạm [10]. Chính những hạn chế, bất cập này gây ra khó khăn cho Tòa án trong quá trình áp dụng pháp luật hình sự và quyết định hình phạt.

Quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai - 8

Đồng thời, khoản 3 Điều 54 BLHS năm 2015 quy định trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn và yêu cầu “lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rò trong bản án”. Tuy nhiên, hiện nay vẫn thiếu những văn bản hướng dẫn cụ thể nên thiết nghĩ các cơ quan có thẩm quyền cần sớm ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể để các Tòa án áp dụng thống nhất, tạo tính thuyết phục trong quyết định hình phạt.

- Nguyên nhân chủ quan:

Những vi phạm, sai lầm trong quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục trên đại bàn tỉnh Đồng Nai thời gian qua một phần xuất phát từ những hạn chế, bất cập trong quy định của pháp luật nhưng nguyên nhân chính và chủ yếu vẫn là do không tuân thủ và áp dụng đúng các căn cứ quyết định hình phạt cũng như sự hạn chế, yếu kém về trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức và trách nhiệm của một số Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.

Một là, một số trường hợp Hội đồng xét xử không tuân thủ và áp dụng đúng các căn cứ quyết định hình phạt

Nhiều sai phạm xuất phát từ ý thức chủ quan của những người làm công tác xét xử, do chưa nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án nên họ đã không đánh giá đầy đủ, toàn diện các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS của vụ án hoặc bỏ sót các tình

tiết thuộc về nhân thân người phạm tội khi quyết định hình phạt. Thậm chí có những trường hợp có thành viên của Hội đồng xét xử bị tha hóa đạo đức, cố tình áp dụng sai quy định của pháp luật dẫn đến hiện tượng quyết định hình phạt không phù hợp, không công bằng. Hơn nữa, pháp luật dù có hoàn thiện đến mấy cũng không thể phản ánh và quy định được hết tất cả các điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của cuộc sống [38, tr.209]. Vì thế, có những tình tiết mới xuất hiện nhưng các quy định của pháp luật hiện hành chưa điều chỉnh hết gây khó khăn cho quá trình áp dụng trên thực tế.

Hai là, sự hạn chế, yếu kém về trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức và trách nhiệm của một số Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân.

Trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức và trách nhiệm của đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân ngành Tòa án tỉnh Đồng Nai còn hạn chế và chưa đồng đều cũng là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến hoạt động quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục đạt hiệu quả chưa cao.

Những năm gần đây, công cuộc cải cách tư pháp đòi hỏi việc đào tạo, bổ nhiệm Thẩm phán được thực hiện nghiêm túc nên đã tạo ra được một đội ngũ Thẩm phán có năng lực chuyên môn nghiệp vụ và đạo đức. Tuy nhiên, năng lực trình độ chuyên môn của một số Thẩm phán tại Tòa án nhân dân các cấp của tỉnh Đồng Nai cũng nằm trong tình hình chung của cả nước đó là thiếu về số lượng, chưa mạnh về chất lượng, và không đồng đều giữa các Tòa án. Ý thức và tinh thần trách nhiệm của một số Thẩm phán xét xử các vụ án hình sự về các tội xâm phạm tình dục chưa được phát huy, vẫn còn những trường hợp quyết định hình phạt vi phạm, sai lầm do thiếu thận trọng khi nghiên cứu hồ sơ vụ án, lệ thuộc vào kết quả sẵn có của Cơ quan điều tra và truy tố của Viện kiểm sát. Đồng thời, công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ về quyết định hình phạt cho đội ngũ Thẩm phán chưa được quan tâm đầu tư đúng mức, phần lớn còn mang tính hình thức.

Hội thẩm nhân dân cũng là một trong những người tham gia trực tiếp vào công tác xét xử. Khi xét xử các vụ án hình sự nói chung, các vụ án hình sự về các tội xâm phạm tình dục nói riêng Hội thẩm nhân dân đều phải tuân thủ nguyên tắc độc lập và chỉ tuân theo pháp luật khi xét xử. Bởi vậy, khi xem xét quyết định hình phạt thì vai trò của các Hội thẩm nhân dân cũng ngang bằng với Thẩm phán. Chính vì vậy mà năng lực và trình độ của các Hội thẩm nhân dân ảnh hưởng không nhỏ đến việc quyết định hình phạt. Thế nhưng, không nhiều các Hội thẩm nhân dân là người am hiểu pháp luật nói chung cũng như có hiểu biết sâu sắc về lĩnh vực pháp luật hình sự. Đặc biệt, việc bổ nhiệm hội thẩm nhân dân lại chú trọng vào “cơ cấu, thành phần” đại diện các tầng lớp nhân dân, các đoàn thể quần chúng. Cho nên, khi xét xử vai trò của họ không được phát huy do không đủ trình độ hoặc “phụ thuộc” vào thẩm phán. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng của việc quyết định hình phạt.

Ba là, việc kiểm tra công tác xét xử chưa được thực hiện thường xuyên Ngoài những nguyên nhân mang tính khách quan và chủ quan như đã

phân tích thì những hạn chế, thiếu sót trong quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Đồng Nai thời gian qua còn xuất phát từ hạn chế trong việc kiểm tra công tác xét xử. Việc kiểm tra công tác xét xử của TAND cấp trên đối với Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai và của TAND tỉnh đối với các Tòa án nhân dân cấp huyện chưa được thực hiện thường xuyên. Thông thường, qua công tác kiểm tra, các TAND cấp trên sẽ nắm bắt được tình hình thực hiện công tác chuyên môn cũng như những hạn chế, thiếu sót của TAND cấp dưới. Trên cơ sở đó, các Tòa án sẽ đề xuất những giải pháp, kiến nghị hoặc hướng dẫn về chuyên môn để tháo gỡ những khó khăn, vướng mắt, đồng thời xử lý những trường hợp vi phạm. Nếu Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai thường xuyên thực hiện việc kiểm tra, hướng dẫn đối với TAND cấp dưới trong việc xét xử và quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục thì sẽ giúp hạn chế tối đa những vi phạm, sai lầm.

Kết luận chương 2

Qua nghiên cứu, phân tích các số liệu về tình hình các tội xâm phạm tình dục cũng như thực tiễn quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục trên địa bàn tỉnh Đồng Nai, Chương 2 luận văn đã chỉ ra các ưu điểm, hạn chế, bất cập trong quyết định hình phạt và nguyên nhân của những hạn chế, bất cập này.

Nhìn chung, công tác quyết định hình phạt trong xét xử các tội xâm phạm tình dục của Tòa án nhân dân 2 cấp ở tỉnh Đồng Nai giai đoạn 2015 – 2020 đã cơ bản đáp ứng được quy định của pháp luật, bảo đảm mục đích của hình phạt. Tuy nhiên, không phải tất cả các quyết định hình phạt về các tội xâm phạm tình dục của Tòa án cấp sơ thẩm đều chính xác, công bằng mà vẫn còn những hạn chế, thiếu sót như quyết định hình phạt quá nặng hoặc quá nhẹ, quyết định hình phạt không công bằng giữa các tội phạm có hành vi phạm tội tương tự nhau, không áp dụng hoặc áp dụng không đúng các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự khi quyết định hình phạt… dẫn đến việc chưa bảo đảm toàn diện mục đích của hình phạt.

Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót này không chỉ là do bất cập trong quy định của pháp luật hình sự hiện hành mà còn xuất phát từ ý thức chủ quan không tuân thủ đúng các căn cứ quyết định hình phạt khi áp dụng trên thực tế cũng như sự hạn chế, yếu kém về trình độ, năng lực chuyên môn nghiệp vụ, đạo đức và trách nhiệm của một số Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân. Ngoài ra, sự hạn chế trong việc kiểm tra, hướng dẫn công tác xét xử cũng là một trong những nguyên nhân tồn tại những vi phạm, sai lầm trong quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục của các Tòa án nhân dân ở tỉnh Đồng Nai.

Chương 3

MỘT SỐ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐÚNG ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM TÌNH DỤC TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH ĐỒNG NAI

3.1. Các yêu cầu bảo đảm quyết định hình phạt đúng đối với các tội xâm phạm tình dục

3.1.1. Yêu cầu tiếp tục hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự năm 2015 về quyết định hình phạt

Bộ luật hình sự năm 2015 được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 27/11/2015. Sau đó, Bộ luật này tiếp tục được hoàn thiện và đến ngày 20/6/2017, Quốc hội ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số Điều của Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13. Theo Nghị quyết số 41/2017/QH14 về việc thi hành Bộ luật hình sự thì BLHS năm 2015, đã được sửa đổi, bổ sung năm 2017 có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2018. Mặc dù, BLHS năm 2015 đã khắc phục được rất nhiều hạn chế, bất cập và thiếu sót trong quy định về các tội xâm phạm tình dục và quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục. Tuy nhiên, thực tiễn tình hình tội phạm xâm phạm tình dục luôn có những diễn biến phức tạp và xuất hiện nhiều vấn đề mới đòi hỏi hoạt động quyết định hình phạt cũng cần phải luôn được đổi mới cho phù hợp.

Do đó, với những hạn chế, bất cập trong quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục từ thực tiễn tỉnh Đồng Nai như đã phân tích, tác giả cho rằng việc tiếp tục hoàn thiện các quy định của BLHS năm 2015 về các tội xâm phạm tình dục và quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm tình dục là hết sức cần thiết. Trên cơ sở những đề xuất đó, các cơ quan lập pháp sẽ nghiên cứu, tiếp thu và sửa đổi sao cho phù hợp nhất, bảo đảm hiện thực hóa được các chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn.

3.1.2. Yêu cầu của việc tiếp tục cải cách tư pháp hình sự

Công cuộc đấu tranh với các tội phạm xâm phạm tình dục thông qua hoạt động xét xử và quyết định hình phạt đúng đối với loại tội phạm này cũng xuất

Xem tất cả 81 trang.

Ngày đăng: 24/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí