hướng tăng nặng khung hình phạt tiền từ "từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng" lên thành "từ mười triệu đồng đến một trăm năm mươi triệu đồng"; còn đối với hình phạt bổ sung "cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ một năm đến năm năm" vẫn được giữ nguyên.
Như vậy, nhìn chung, hình phạt áp dụng đối với tội phạm quy định tại Điều 174 BLHS 2009 nặng hơn so với thời điểm khi mới ban hành năm 1999; tăng mức tối đa của khung hình phạt tù từ "bảy năm" lên "mười hai năm" và hình phạt bổ sung tiền từ "năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng" thành "mười triệu đồng đến một trăm năm mươi triệu đồng". Bên cạnh đó, nhà làm luật còn sắp xếp lại các dấu hiệu định tội và cụ thể hóa các tình tiết tăng nặng định khung hình phạt từ hai khoản (khung) lên thành ba khoản (khung) theo các mức độ hậu quả của tội phạm gây ra. Sự sửa đổi này là phù hợp với tình hình thực tiễn và xu hướng vận động của xã hội nói chung, đặc điểm nền kinh tế nói riêng của đất nước ta sau hơn mười năm phát triển. Song vẫn đảm bảo chính sách hình sự cũng như đường lối đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm vi phạm các quy định về quản lý đất đai của Nhà nước ta. Mặt khác, điều này chứng tỏ kỹ thuật lập pháp của nước ta đã được nâng lên một bước, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế về mọi mặt mà Đảng, Nhà nước đã đặt ra.
2.2. TỘI VI PHẠM CÁC QUY ĐỊNH VỀ SỬ DỤNG ĐẤT ĐAI
2.2.1. Dấu hiệu pháp lý của tội phạm
Tội vi phạm các quy định về sử dụng đất đai được quy định tại Điều 173 BLHS 1999, với nội dung:
1. Người nào lấn chiếm đất hoặc chuyển quyền sử dụng đất, sử dụng đất trái với các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng đất đai gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến năm mươi triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến ba năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ ba mươi triệu đồng đến một trăm triệu đồng hoặc phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có tổ chức;
b) Phạm tội nhiều lần;
Có thể bạn quan tâm!
- Tội Vi Phạm Các Quy Định Về Quản Lý Đất Đai
- Các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai trong Luật Hình sự Việt Nam Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn trên địa bàn thành phố Hà Nội - 7
- Các tội phạm trong lĩnh vực quản lý và sử dụng đất đai trong Luật Hình sự Việt Nam Trên cơ sở nghiên cứu thực tiễn trên địa bàn thành phố Hà Nội - 8
- Phân Biệt Các Tội Phạm Trong Lĩnh Vực Quản Lý Và Sử Dụng Đất Đai Với Một Số Tội Khác Trong Bộ Luật Hình Sự Năm 1999
- Phân Biệt Tội Vi Phạm Các Quy Định Về Quản Lý Đất Đai Với Tội Cố Ý Làm Trái Quy Định Của Nhà Nước Về Quản Lý Kinh Tế
- Tình Hình Vi Phạm Pháp Luật Do Công An Thành Phố Khám Phá, Phát Hiện
Xem toàn bộ 136 trang tài liệu này.
c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng.
3. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ năm triệu đồng đến hai mươi triệu đồng.
Cũng giống như việc nghiên cứu tội Vi phạm các quy định về quản lý đất đai, chúng ta cùng lần lượt đi tìm hiểu và phân tích các dấu hiệu pháp lý hình sự của tội Vi phạm các quy định về sử dụng đất đai qua bốn yếu tố của CTTP: khách thể của tội phạm, mặt khách quan của tội phạm, chủ thể của tội phạm và mặt chủ quan của tội phạm. Cụ thể như sau:
a) Về khách thể của tội phạm
Hiến pháp Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam quy định:
Nhà nước thống nhất quản lý toàn bộ đất đai theo quy hoạch và pháp luật, bảo đảm sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả. Nhà nước giao đất cho các tổ chức và cá nhân sử dụng ổn định lâu dài. Tổ chức và cá nhân có trách nhiệm bảo vệ, bồi bổ, khai thác hợp lý, sử dụng tiết kiệm đất, được chuyển quyền sử dụng đất được Nhà nước giao theo quy định của pháp luật [46, Điều 18].
Như vậy, khách thể của tội Vi phạm các quy định về sử dụng đất đai bao gồm các quan hệ xã hội về trật tự quản lý nhà nước về đất đai, hay nói cách khác, đó là quyền quản lý thống nhất đất đai của Nhà nước. Tội phạm xâm hại đến các quan hệ này thông qua việc vi phạm các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng đất đai, qua đó gây thiệt hại đến lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, cũng như xâm hại chính sách quản lý đất đai của Nhà nước đã được Hiến định.
So với tội phạm được quy định tại Điều 180 BLHS 1985, với việc tách ra thành hai tội độc lập được điều chỉnh tại hai Điều (Điều 173, Điều 174) trong BLHS 1999, khách thể của tội Vi phạm các quy định về sử dụng đất đai đã được xác định một cách rõ ràng, cụ thể. Việc tách tội như thế góp phần nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, tăng cường pháp chế XHCN.
Về đối tượng tác động của tội phạm, giống như tội Vi phạm các quy định về quản lý đất đai, đối tượng tác động của tội phạm Vi phạm các quy định về sử dụng đất đai cũng chính là đất đai.
b) Mặt khách quan của tội phạm
Mặt khách quan của tội phạm vi phạm các quy định về sử dụng đất đai theo Điều 173 BLHS được thể hiện thông qua ba dạng hành vi sau:
- Lấn chiếm đất;
- Chuyển quyền sử dụng đất trái với các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng đất đai;
- Sử dụng đất trái với các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng
đất đai.
Hành vi lấn chiếm đất là hành vi của người sử dụng mọi thủ đoạn lấn
chiếm đất thuộc quyền quản lý của Nhà nước nhằm xác lập bất hợp pháp quyền sử dụng đất hoặc sử dụng trái phép đất đai như: tự ý chuyển dịch mốc giới hoặc ranh giới thửa đất để mở rộng diện tích đất; sử dụng đất mà không được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép hoặc chủ sử dụng đất cho phép sử dụng hoặc việc sử dụng đất do được Nhà nước tạm giao hoặc mượn đất nhưng hết thời hạn tạm giao, mượn đất mà không trả lại đất…
Hành vi chuyển quyền sử dụng đất trái với các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng đất đai bao gồm các hành vi: chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất mà không thực hiện đúng thủ tục hành chính theo quy định của pháp luật về đất đai; tự ý chuyển đổi,
chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất đối với đất không đủ điều kiện, với các thủ đoạn như: chuyển quyền sử dụng đất cho người khác khi mình không có quyền đó, chuyển quyền sử dụng đất nằm trong quy hoạch hoặc đã có sự đền bù của Nhà nước…
Hành vi sử dụng đất trái với các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng đất đai là các hành vi như: sử dụng đất không đúng mục đích, hủy hoại đất, không đăng ký quyền sử dụng đất lần đầu, không đăng ký biến động quyền sử dụng đất, không đăng ký khi chuyển mục đích sử dụng đất, không trả lại đất đúng thời hạn theo quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, chậm đưa đất vào sử dụng theo quy định của pháp luật về đất đai… biểu hiện dưới các dạng hành vi cụ thể như: xây dựng nhà, công trình trên đất canh tác hoặc đất chuyên dùng khi chưa được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cho phép; đưa các chất độc hại vào đất làm suy giảm chất lượng đất, gây ô nhiễm đất làm mất hoặc giảm khả năng sử dụng đất theo mục đích đã được xác định...
Nếu người nào thực hiện một trong những hành vi: lấn chiếm đất hoặc chuyển quyền sử dụng đất, sử dụng đất trái với các quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng đất đai gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì bị truy cứu TNHS. Về mặt khách quan, không phải một người cứ có một trong những hành vi nêu trên đều bị truy cứu TNHS, mà bên cạnh việc thực hiện hành vi phải kèm theo điều kiện cần và đủ mới có thể bị coi là người phạm tội. Dấu hiệu "gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm" chính là dấu hiệu đặc trưng và bắt buộc của CTTP cơ bản của tội Vi phạm các quy định về sử dụng đất đai.
Cũng giống như tội Vi phạm các quy định về quản lý đất đai, hành vi khách quan của tội Vi phạm các quy định về sử dụng đất đai là loại tội phạm vừa có thể được thực hiện bằng hành động, vừa có thể được thực hiện bằng không hành động, nhưng hành động là chủ yếu.
- Ở dạng hành động: người phạm tội thực hiện không đúng hoặc vi phạm những điều cấm của Nhà nước quy định về sử dụng đất đai, bao gồm các hành vi: sử dụng đất không đúng mục đích; lấn, chiếm đất; hủy hoại đất; gây cản trở cho việc sử dụng đất của người khác; chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất mà không thực hiện đúng thủ tục hành chính theo quy định của pháp luật về đất đai; tự ý chuyển đổi, chuyển nhượng, tặng cho, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất đối với đất không đủ điều kiện; tự tiện di chuyển, làm sai lệch, hư hỏng mốc chỉ giới quy hoạch sử dụng đất, mốc chỉ giới hành lang an toàn của công trình, mốc địa giới hành chính, làm sai lệch các giấy tờ, chứng từ trong việc sử dụng đất.
- Ở dạng không hành động: người phạm tội không thực hiện nghĩa vụ pháp lý của mình mặc dù có đủ điều kiện và theo quy định thì phải thực hiện. Các hành vi đó biểu hiện dưới dạng như: không đăng ký quyền sử dụng đất lần đầu, không đăng ký biến động quyền sử dụng đất, không đăng ký khi chuyển mục đích sử dụng đất, không đăng ký gia hạn sử dụng đất khi hết hạn sử dụng đất mà đang sử dụng đất, không trả lại đất đúng thời hạn theo quyết định thu hồi đất của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, chậm đưa đất vào sử dụng theo quy định của pháp luật về đất đai, chậm hoặc không cung cấp thông tin, giấy tờ, tài liệu có liên quan đến việc thanh tra, kiểm tra.
Về mặt lý luận, các hành vi nêu trên chỉ CTTP trong các trường hợp: gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm. Trong đó, "gây hậu quả nghiêm trọng" được xác định là dấu hiệu về hậu quả của tội phạm, còn "đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm" và "đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm" thì được xem là các dấu hiệu thuộc về đặc điểm nhân thân xấu của người phạm tội.
* Về dấu hiệu "gây hậu quả nghiêm trọng"
Hậu quả của tội phạm vi phạm các quy định về sử dụng đất đai, được hiểu là những thiệt hại về lợi ích kinh tế của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, công dân, xâm hại đến việc thực hiện đường lối, chính sách của Nhà nước về quản lý và sử dụng đất đai và những thiệt hại nghiêm trọng khác cho xã hội. Nói cách khác, hậu quả này bao gồm cả những thiệt hại mang tính vật chất và phi vật chất như: phá vỡ quy hoạch sử dụng đất đai của Nhà nước, làm xói mòn hoặc làm nghèo đất canh tác, gây thất thu các khoản thu từ phí và lệ phí đối với đất đai... Tùy từng trường hợp cụ thể mà đánh giá mức độ hậu quả do tội phạm gây ra đã là nghiêm trọng hay chưa.
Tính chất và mức độ hậu quả của tội phạm vi phạm các quy định về sử dụng đất đai được xác định bởi tính chất của hành vi vi phạm và mức độ thiệt hại về kinh tế, cũng như sự biến đổi về giá trị, chất lượng của đất. Vì vậy, CTTP của tội Vi phạm các quy định về sử dụng đất đai là cấu thành vật chất; hậu quả nguy hiểm cho xã hội không được phản ánh một cách trực tiếp mà phản ánh thông qua đối tượng tác động là đất đai. Trong thực tiễn áp dụng, việc xác định, đánh giá hậu quả của tội phạm được thực hiện thông qua việc đánh giá đặc điểm, tính chất của đất, giá trị quyền sử dụng đất hoặc sự biến đổi tình trạng ban đầu của đất. Đây là một trong những dấu hiệu bắt buộc để truy cứu TNHS đối với người có hành vi vi phạm các quy định về sử dụng đất đai theo quy định của pháp luật hình sự.
Tuy nhiên, cũng giống như dấu hiệu "gây hậu quả nghiêm trọng" trong tội Vi phạm các quy định về quản lý đất đai, cho đến nay, vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể về dấu hiệu này trong tội Vi phạm các quy định về sử dụng đất đai. Song, chúng ta cũng có thể vận dụng Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-TANDTC-VKSNDTC-BCA-BTP để đánh giá hậu quả của tội phạm này (xem điểm b mục 2.1.1). Điều này ảnh hưởng rất lớn trong việc truy cứu TNHS và định tội danh đối với người phạm tội, do đó cần thiết sớm có hướng dẫn về dấu hiệu này để giúp cho các cơ quan tố tụng hình sự nói chung, Tòa án nói riêng đưa ra được đường lối xử lý đúng người, đúng tội,
đảm bảo công bằng, dân chủ, tránh làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm; tránh tình trạng mỗi địa phương, mỗi cán bộ tiến hành tố tụng có cách hiểu, vận dụng quy định pháp luật khác nhau theo ý thức chủ quan của cá nhân mình. Đây là điều kiện thuận lợi để một bộ phận cán bộ, người có chức vụ, quyền hạn thoái hóa, biến chất về đạo đức nghề nghiệp trong các cơ quan bảo vệ pháp luật có cơ hội lợi dụng làm trái để trục lợi, xử lý oan, sai người vô tội hoặc không truy cứu TNHS, áp dụng loại hình phạt, mức hình phạt quá nhẹ, không tương xứng với tính chất, mức độ hành vi vi phạm của người phạm tội. Thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm về sử dụng đất đai cho thấy, rất khó khăn để truy cứu TNHS một người nếu căn cứ vào dấu hiệu định tội nói trên. Nhiều vụ án, Tòa án phải thỉnh thị, xin ý kiến về đường lối xét xử của Tòa án cấp trên, hoặc nếu không thì vụ án có thể bị trả hồ sơ để điều tra, xét xử lại nhiều lần, dẫn đến thời hạn giải quyết án kéo dài, gây tốn kém thời gian, tiền bạc của Nhà nước, thậm chí oan, sai trong tố tụng hình sự.
Nếu hành vi vi phạm các quy định về sử dụng đất đai gây hậu quả chưa nghiêm trọng thì không bị coi là tội phạm, trừ trường hợp người thực hiện hành vi "đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm" hoặc "đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm" thì mới phải chịu TNHS.
* Về dấu hiệu "đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm"
Giống như dấu hiệu "gây hậu quả nghiêm trọng", "đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm" cũng được xem là dấu hiệu định tội của tội Vi phạm các quy định về sử dụng đất đai. Nghĩa là, người thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS, nếu không thuộc trường hợp "gây hậu quả nghiêm trọng" hoặc "đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm" nhưng thuộc trường hợp "đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm", thì hành vi đó được coi là tội phạm và người đã thực hiện hành vi phải chịu TNHS.
Theo hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán TANDTC:
“Đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm" là trước đó một người đã bị xử phạt hành chính về một trong những hành vi được liệt kê trong tội đó bằng một trong các hình thức xử phạt theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính mà lại thực hiện một trong những hành vi được liệt kê trong tội đó [62, Mục 6.2a].
Nghĩa là, nếu một người trước đó đã bị xử phạt hành chính về một trong những hành vi: lấn, chiếm đất hoặc chuyển quyền sử dụng đất, sử dụng đất trái với quy định của Nhà nước về quản lý và sử dụng đất đai, bằng hình thức xử phạt cảnh cáo hoặc phạt tiền, nhưng chưa hết thời hạn để được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính mà lại thực hiện một trong các hành vi quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS, thì người đó phải bị truy cứu TNHS đối với hành vi vi phạm lần sau. Trong trường hợp này, CTTP của tội Vi phạm các quy định về sử dụng đất đai là cấu thành hình thức.
Các hành vi vi phạm quy định về sử dụng đất đai nêu trên được quy định cụ thể tại Nghị định số 105/2009/NĐ-CP ngày 11/11/2009 của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực đất đai, bao gồm:
- Sử dụng đất không đúng mục đích (Điều 8);
- Lấn, chiếm đất (Điều 9);
- Hủy hoại đất (Điều 10);
- Gây cản trở cho việc sử dụng đất của người khác (Điều 11);
- Chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho quyền sử dụng đất hoặc thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng quyền sử dụng đất mà không thực hiện đúng thủ tục hành chính theo quy định của pháp luật về đất đai (Điều 12);