vụ, quyền hạn thực hiện, do đó dẫn đến sự chưa thống nhất trong định nghĩa lập pháp về khái niệm “Tội phạm về chức vụ”.
Ngoài ra, một số tội phạm khác về chức vụ cũng còn nhiều vấn đề cần có sự nhận thức và áp dụng thống nhất, ví dụ như: dấu hiệu “gây hậu quả nghiêm trọng” trong tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng và nhiều tội phạm khác; thời điểm hoàn thành của tội đưa hối lộ, tội làm môi giới hối lộ, cũng như việc phân hóa trách nhiệm hình sự trong các trường hợp cụ thể - không có tội hay được miễn trách nhiệm hình sự đối với tội đưa hối lộ; việc định tội danh giữa tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng, tội đưa hối lộ với một số tội phạm khác; vấn đề sửa đổi, bổ sung các tội phạm khác về chức vụ cho phù hợp với Luật phòng, chống tham nhũng năm 2005, sửa đổi năm 2013; v.v...
Tất cả những vấn đề này đòi hỏi cần làm sáng tỏ trên phương diện lý luận, hoàn thiện về mặt lập pháp hình sự để áp dụng một cách chính xác các quy phạm này vào thực tiễn, từ đó đem lại những lợi ích chính đáng và thiết thân cho Nhà nước, cho mỗi công dân và cho toàn xã hội. Cụ thể, đối với Nhà nước, mà trực tiếp là các cơ quan tư pháp hình sự có thẩm quyền sẽ nâng cao uy tín của mình trước nhân dân, làm cho nhân dân tin vào tính công minh và sức mạnh của pháp luật, qua đó khuyến khích người dân tham gia tích cực vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, tố giác tiêu cực. Đối với mỗi công dân sẽ an tâm về hiệu quả hoạt động của các cơ quan bảo vệ pháp luật và Tòa án có thẩm quyền mà toàn tâm toàn ý hỗ trợ, cùng với các cơ quan tư pháp này giải quyết thấu đáo, triệt để vấn đề. Còn đối với toàn xã hội sẽ có được một pháp chế vững mạnh - đó chính là nền tảng cơ bản để chúng ta xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu sâu sắc hơn nữa những vấn đề lý luận về các tội phạm khác về chức vụ và thực tiễn xét xử trên địa bàn thành phố
Hồ Chí Minh, qua đó đánh giá thực tiễn xét xử để đưa ra những kiến giải lập pháp hoàn thiện pháp luật về các tội phạm này trong giai đoạn hiện nay không những có ý nghĩa lý luận - thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn là vấn đề mang tính cấp thiết. Do đó, việc học viên lựa chọn đề tài “Các tội phạm khác về chức vụ theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở nghiên cứu số liệu địa bàn thành phố Hồ Chí Minh” làm luận văn thạc sĩ luật học là cần thiết.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Mặc dù thuộc Mục B trong Chương XXI - Các tội phạm về chức vụ, nhưng nghiên cứu riêng rẽ và độc lập các tội phạm khác về chức vụ chưa được quan tâm nghiên cứu và trong cả việc ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật hình sự.
* Dưới góc độ thực tiễn xét xử, Tòa án nhân dân tối cao đã có văn bản hướng dẫn việc xử lý một số khía cạnh liên quan đến các tội phạm này như Nghị quyết số 04/HĐTP ngày 29/11/1986 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định trong Phần các tội phạm của Bộ luật hình sự năm 1985. Trong đó cũng chỉ hướng dẫn một số tội sau: tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng; tội cố ý làm lộ bí mật công tác, tội chiếm đoạt, mua bán hoặc tiêu hủy tài liệu bí mật công tác; tội vô ý làm lộ bí mật công tác, tội làm mất tài liệu bí mật công tác. Tuy nhiên, tính đến thời điểm hiện nay, chưa có một văn bản pháp lý nào của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hướng dẫn một cách cụ thể, chi tiết về các tội phạm khác về chức vụ. Ngoài ra, Nghị quyết số 01/2001/NQ-HĐTP ngày 15/3/2001 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của các điều 139, 193, 194, 278, 279 và 289 Bộ luật hình sự năm 1999 để áp dụng thống nhất các khung hình phạt trong các tội phạm này (trong đó có tội đưa hối lộ). Sau đó, ngày 19/6/2009, Quốc hội đã ban hành Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật hình sự cũng có một số sửa đổi, bổ sung
liên quan đến ba tội trong nhóm các tội phạm khác về chức vụ là tội đưa hối lộ (Điều 289), tội làm môi giới hối lộ (Điều 290) và tội lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức vụ, quyền hạn để trục lợi (Điều 291) bằng việc tăng mức định lượng tài sản để truy cứu trách nhiệm hình sự từ năm trăm nghìn đồng lên hai triệu đồng, đồng thời bỏ hình phạt tử hình đối với tội đưa hối lộ (Điều 289 Bộ luật hình sự).
* Dưới góc độ khoa học pháp lý hình sự, việc nghiên cứu các tội phạm khác về chức vụ chưa được quan tâm nghiên cứu, mà mới chỉ đề cập, bình luận từng tội phạm cụ thể trong trong hệ thống giáo trình dành cho hệ đại học của các cơ sở đào tạo luật học như: 1) PGS. TS. Trần Văn Độ, Chương XIII - Các tội phạm về chức vụ, Trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), GS. TSKH. Lê Cảm chủ biên, NXB. Đại học Quốc gia Hà Nội, 2001, tái bản năm 2007; 2) GS. TS. Võ Khánh Vinh, Chương XII - Các tội phạm về chức vụ, Trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (Phần các tội phạm), NXB. Công an nhân dân, Hà Nội, 2001; 3) TS. Phạm Văn Beo, Bài 12 - Các tội phạm về chức vụ, Trong sách: Luật hình sự Việt Nam (Quyển 2 - Phần các tội phạm), NXB. Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2010;
Có thể bạn quan tâm!
- Các tội phạm khác về chức vụ theo luật hình sự Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu số liệu địa bàn thành phố Hồ Chí Minh - 1
- Phân Biệt Tội Phạm Về Chức Vụ Với Những Hành Vi Vi Phạm Pháp Luật Khác Của Người Có Chức Vụ, Quyền Hạn
- Khái Niệm Các Tội Phạm Khác Về Chức Vụ Và Ý Nghĩa Của Việc Quy Định Các Tội Phạm Này Trong Bộ Luật Hình Sự Việt Nam
- Phạm Tội Trong Trường Hợp Gây Hậu Quả Đặc Biệt Nghiêm Trọng Thì Bị Phạt Tù Từ 5 Năm Đến 15 Năm” [47].
Xem toàn bộ 135 trang tài liệu này.
4) TS. Cao Thị Oanh, Chương 12 - Các tội phạm về chức vụ, Trong sách: Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, NXB. Giáo dục, Hà Nội, 2010; v.v...
Ngoài ra, các tội phạm nói chung, các tội phạm do người có chức vụ, quyền hạn thực hiện và lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội nói riêng là nhóm tội phạm và là hành vi có tính nhạy cảm cao, phức tạp, nguy hiểm cho xã hội đã được một số nhà luật học trong nước quan tâm nghiên cứu. Đáng chú ý là công trình của GS. TS. Võ Khánh Vinh về “Tìm hiểu trách nhiệm hình sự đối với các tội phạm về chức vụ”, NXB. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1994 hay cuốn sách của ThS. Đinh Văn Quế về “Bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999 (Phần các tội phạm)”, Tập VI - “Các tội phạm về chức vụ”, NXB. Thành phố Hồ Chí Minh, 2002, tái bản năm 2010.
* Dưới góc độ đề tài luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ luật học: Tương tự, cũng chưa có công trình khoa học nào đề cập đến các tội phạm khác về chức vụ. Gần đây nhất, chỉ có luận văn thạc sĩ luật học đề cập riêng rẽ một tội trong nhóm tội phạm này với đề tài: “Tội thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả Đinh Thị Kiều My, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012.
* Dưới góc độ bài viết trên các tạp chí khoa học, cũng chỉ có một số bài viết đơn lẻ đề cập trực tiếp hoặc gián tiếp đến nhóm các tội phạm khác về chức vụ, chẳng hạn: 1) Miễn trách nhiệm hình sự cho người phạm tội đưa hối lộ và thực tiễn qua hai vụ án, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, số 11/2005; 2) Nghiên cứu so sánh các quy định về tội đưa hối lộ, tội làm môi giới hối lộ trong luật hình sự Việt Nam và Công ước Liên Hợp quốc về chống tham nhũng, Tạp chí Tòa án nhân dân, số 17, 18 (tháng 8, 9)/2011 của TS. Trịnh Tiến Việt; 3) Tìm hiểu khái niệm “người có chức vụ” và “lợi dụng chức vụ để phạm tội” trong luật hình sự Việt Nam, Http://www.hvcsnd.vn của ThS. Phan Thị Bích Hiền; 4) Hoàn thiện quy định về các tội phạm về hối lộ, Tạp chí Luật học, số 3/2009 của TS. Trần Hữu Tráng; 5) Các tội phạm hối lộ từ góc độ luật pháp quốc tế, Tạp chí Luật học, số 2/2011 của TS. Đào Lệ Thu; v.v...
Như vậy, dưới góc độ một luận văn thạc sĩ luật học, cho đến nay chưa có công trình nào đề cập riêng rẽ đến các tội phạm khác về chức vụ theo luật hình sự Việt Nam, cũng như nghiên cứu thực tiễn xét xử trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh để nghiên cứu. Do đó, việc tác giả lựa chọn đề tài này rõ ràng có tính thời sự và cấp thiết.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn đúng như tên gọi của nó - Các tội phạm khác về chức vụ theo luật hình sự Việt Nam (trên cơ sở số liệu địa bàn thành phố Hồ Chí Minh).
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về các tội phạm khác về chức vụ theo luật hình sự Việt Nam dưới góc độ pháp lý hình sự, khái quát lịch sử hình thành và phát triển về các tội phạm này từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, phân tích thực tiễn xét xử trong thời gian 05 năm (2008 - 2012) trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời có so sánh với Bộ luật hình sự một số nước trên thế giới, qua đó nhằm giải quyết nhiệm vụ và đối tượng nghiên cứu.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của luận văn là làm sáng tỏ một cách có hệ thống về mặt lý luận những nội dung cơ bản về các tội phạm khác về chức vụ theo luật hình sự Việt Nam và thực tiễn xét xử trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, từ đó rút ra những tồn tại, bất cập để đề xuất việc hoàn thiện các tội phạm này trong Bộ luật hình sự, góp phần đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, các tội phạm khác về chức vụ nói riêng ở nước ta hiện nay.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
* Về lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu chính sách hình sự của Nhà nước về các tội phạm khác về chức vụ, phân tích khái niệm, những dấu hiệu pháp lý hình sự, nội dung và điều kiện áp dụng, lịch sử hình thành và phát triển của các tội phạm này trong luật hình sự Việt Nam từ sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, cũng như so sánh với Bộ luật hình sự một số nước trên thế giới, qua đó làm sáng tỏ bản chất pháp lý và những nội dung cơ bản của các tội phạm khác về chức vụ.
* Về thực tiễn: Nghiên cứu, đánh giá việc áp dụng quy phạm pháp luật hình sự các tội phạm khác về chức vụ trong thực tiễn xét xử trong thời gian 05 năm (2008 - 2012) trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời
phân tích những tồn tại xung quanh việc áp dụng pháp luật và trong lập pháp hình sự, từ đó đề xuất những kiến nghị hoàn thiện Bộ luật hình sự Việt Nam về các tội phạm này.
5. Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở phương pháp luận
Cơ sở lý luận của luận văn là quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về đấu tranh phòng và chống tội phạm, cũng như thành tựu của các chuyên ngành khoa học pháp lý như: lịch sử pháp luật, lý luận về Nhà nước và pháp luật, luật hình sự, tội phạm học và luật tố tụng hình sự, những luận điểm khoa học trong các công trình nghiên cứu, sách chuyên khảo và các bài viết đăng trên tạp chí của một số nhà khoa học luật hình sự Việt Nam và nước ngoài.
5.2. Các phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu của khoa học luật hình sự như: lịch sử, so sánh, phân tích, tổng hợp, phương pháp xã hội học như thống kê, định lượng, định tính… để phân tích, tổng hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được nghiên cứu trong luận văn.
6. Những đóng góp mới của luận văn
6.1. Về mặt lý luận
Luận văn nghiên cứu, giải quyết một cách tương đối có hệ thống và đầy đủ về những vấn đề lý luận và thực tiễn của các tội phạm khác về chức vụ theo luật hình sự Việt Nam và đánh giá thực tiễn xét xử trong thời gian 05 năm (2008 - 2012) trên một địa bàn cụ thể là thành phố Hồ Chí Minh, đồng thời so sánh với Bộ luật hình sự một số nước trên thế giới, từ đó đưa ra những kiến nghị hoàn thiện các tội phạm này trong Bộ luật hình sự Việt Nam.
Do đó, luận văn có ý nghĩa làm tài liệu tham khảo lý luận cần thiết cho
các nhà khoa học - luật gia, cán bộ thực tiễn và các sinh viên, học viên cao học và nghiên cứu sinh chuyên ngành tư pháp hình sự, cũng như góp phần phục vụ cho công tác lập pháp và hoạt động thực tiễn áp dụng pháp luật hình sự trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm, cũng như công tác giáo dục, cải tạo người phạm tội ở nước ta hiện nay.
6.2. Về mặt thực tiễn
Thông qua việc phân tích các dấu hiệu pháp lý hình sự, luận văn góp phần vào việc xác định đúng đắn những điều kiện cụ thể của các trường hợp phạm tội trong nhóm các tội phạm khác về chức vụ trong thực tiễn xét xử, đồng thời đưa ra những kiến nghị hoàn thiện các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam về nhóm tội phạm này ở khía cạnh lập pháp, cũng như việc áp dụng chúng trong thực tiễn trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, qua đó nâng cao hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm nói chung, các tội phạm khác về chức vụ nói riêng ở nước ta hiện nay.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận văn gồm 3 chương như sau:
Chương 1: Những vấn đề chung về các tội phạm khác về chức vụ theo luật hình sự Việt Nam.
Chương 2: Các tội phạm khác về chức vụ theo Bộ luật hình sự Việt Nam và Bộ luật hình sự một số nước trên thế giới.
Chương 3: Thực tiễn xét xử trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh và những kiến nghị hoàn thiện Bộ luật hình sự Việt Nam về các tội phạm khác về chức vụ.
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CÁC TỘI PHẠM KHÁC VỀ CHỨC VỤ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM
1.1. KHÁI NIỆM TỘI PHẠM VỀ CHỨC VỤ THEO LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM VÀ PHÂN BIỆT VỚI NHỮNG HÀNH VI VI PHẠM PHÁP LUẬT KHÁC CỦA NGƯỜI CÓ CHỨC VỤ, QUYỀN HẠN
1.1.1. Khái niệm tội phạm về chức vụ
Sức mạnh, uy tín và hiệu quả của bộ máy nhà nước phụ thuộc nhiều ở hoạt động của các cơ quan nhà nước. Cán bộ, công chức nhà nước là những người trực tiếp thực hiện các hoạt động của cơ quan nhà nước trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, làm việc có trách nhiệm, tận tụy, tận tâm, “vì nước, vì dân” thì mới tạo động lực cho xã hội phát triển, phồn vinh và thịnh vượng.
Hiện nay, trong sự nghiệp bảo vệ và xây dựng Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, đại đa số bộ phận cán bộ, công chức tận tụy làm việc vì nước, vì dân, tận tâm với công việc, chức trách được giao, nêu cao tinh thần cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, vì lợi chung của Nhà nước, của cơ quan, tổ chức và của người dân. Tuy nhiên, bên cạnh đó, còn tồn tại một bộ phận cán bộ, công chức nhà nước có thái độ quan liêu, hách dịch, cửa quyền, lộng quyền, nhận hối lộ... trong quan hệ với nhân dân. Nguy hiểm hơn nữa, họ lợi dụng hoặc lạm dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ gây thiệt hại đến lợi ích nhà nước, lợi ích của người cán bộ và cơ quan nhà nước, làm cho hiệu quả hoạt động của cơ quan nhà nước bị ảnh hưởng nghiêm trọng [25].
Vì vậy, để xác định nghĩa vụ, trách nhiệm của cán bộ, công chức nhà nước và thể hiện thái độ kiên quyết, không khoan nhượng đối với tệ nạn trên, thì Hiến pháp Việt Nam năm 1992, sửa đổi năm 2001 đã quy định: “Các cơ