Phạm Tội Trong Trường Hợp Gây Hậu Quả Đặc Biệt Nghiêm Trọng Thì Bị Phạt Tù Từ 5 Năm Đến 15 Năm” [47].

thắng Điện Biên Phủ và Hiệp định Giơnevơ, miền Bắc nước ta bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội và trở thành hậu phương lớn cho Cách mạng miền Nam. Để góp phần trang bị máy móc cho sản xuất, các nhà máy lớn được xây dựng, các hợp tác xã nông nghiệp là lực lượng sản xuất chủ lực của miền Bắc. Nhà nước tiến hành quốc hữu hóa tư liệu sản xuất, cải tạo xã hội chủ nghĩa. Để bảo vệ an ninh trật tự xã hội, ngày 15/6/1956, Chủ tịch Hồ Chí Minh ban hành Sắc lệnh số 267-SL nhằm trừng trị những âm mưu, hành động phá hoại hoặc làm thiệt hại đến tài sản của Nhà nước, của hợp tác xã và của nhân dân. Sắc lệnh quy định những tội phạm và hình phạt được áp dụng bao gồm: các hành vi vi mục đích phá hoại mà trộm cắp, lãng phí, làm hỏng, hủy hoại, cướp bóc tài sản của Nhà nước, tài sản của hợp tác xã, tiết lộ, đánh cắp, mua bán, do thám bí mật nhà nước, phá hoại chính sách kế hoạch kinh tế của Nhà nước... thì bị phạt tù từ năm năm đến hai mươi năm.

Đặc biệt, tại Điều 10 Sắc lệnh quy định: Kẻ nào vì thiếu tinh thần trách nhiệm trong công tác mình phụ trách đã để lãng phí, để hư hỏng máy móc, dụng cụ, nguyên vật liệu, để lộ bí mật nhà nước, để xảy ra tai nạn... làm thiệt hại một cách nghiêm trọng đến tài sản của nhà nước, của hợp tác xã, của nhân dân, làm cản trở việc thực hiện chính sách, kế hoạch của Nhà nước, sẽ bị phạt từ ba tháng đến hai năm tù. Nếu bị can là người phụ trách thì có thể bị phạt tới năm năm tù. Nếu gây ra thiệt hại đặc biệt nghiêm trọng, bị can có thể bị phạt tới hai mươi năm tù hoặc tù chung thân, và phải bồi thường thiệt hại. Như vậy, có thể thấy, trong giai đoạn đầu của công cuộc cải tạo xây dựng xã hội chủ nghĩa tại miền Bắc, Nhà nước đặc biệt nêu cao tinh thần trách nhiệm của cán bộ, công chức trong việc thực hiện nhiệm vụ, bảo vệ tài sản nhà nước.

Ngoài ra, để bảo đảm việc xét xử được thống nhất trên toàn miền Bắc, ngày 29/4/1963, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao ban hành Chỉ thị số 02/NCCS hướng dẫn xử lý tội thiếu tinh thần trách nhiệm gây tai nạn làm

thiệt hại đến tài sản nhà nước, đến sức khỏe và sinh mạng của những người lao động tại các nhà máy, hầm mỏ, kho tàng, công trường... Chỉ thị nêu rõ những sai lầm mà các Tòa án địa phương mắc phải khi xét xử loại tội phạm này như: Tòa án đã coi hành vi khinh suất gây tai nạn của người không có trách nhiệm công tác là tội thiếu tinh thần trách nhiệm và áp dụng Điều 10 Sắc lệnh 267 - SL ngày 15/6/1956, đáng lẽ phải áp dụng Điều 4 Thông tư 442

- TTg (không cẩn thận hay không theo luật đi đường mà gây tai nạn làm người khác bị thương sẽ bị phạt tù từ 03 tháng đến 03 năm, nếu gây tai nạn làm chết người có thể bị phạt tù đến 10 năm). Hoặc chưa phân biệt được hành vi thiếu tinh thần trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng phải coi là một tội phạm, với hành vi thiếu tinh thần trách nhiệm gây thiệt hại nhỏ, chỉ cần thi hành kỷ luật hành chính, cho nên có trường hợp đáng lẽ phải xử lý bằng hình sự, Tòa án lại áp dụng biện pháp hành chính hoặc ngược lại; v.v... Do đó, để khắc phục những sai lầm của Tòa án nhân dân địa phương, Tòa án nhân dân tối cao đã có hướng dẫn đường lối xét xử đối với loại tội này như sau:

- Khi xét xử tội thiếu tinh thần trách nhiệm gây tai nạn phải chứng minh đầy đủ ba dấu hiệu bắt buộc: Tai nạn xảy ra do khinh suất; bị can phải là người có trách nhiệm trong công tác và đã gây tai nạn trong công tác; sự thiệt hại phải nghiêm trọng. Lưu ý:

+ Tai nạn do khinh suất: Tai nạn xảy ra ngoài ý muốn của bị can và là hậu quả của hành vi khinh suất. Để nhận định thế nào là bị can phải thấy và có thể thấy trước khả năng xảy ra tai nạn, các Tòa án cần chú ý đi sâu vào cương vị công tác, trình độ hiểu biết kỹ thuật, khả năng trí tuệ, kinh nghiệm lao động của bị can... và cần xem xét trong trường hợp tương tự, một người bình thường, nếu có thái độ làm việc thận trọng, có thể tránh được tai nạn hay là không. Cần tránh khuynh hướng chỉ dựa đơn thuần vào lý lịch của bị can hoặc lời khai để nhận định.

+ Bị can phải là người có trách nhiệm công tác và đã gây tai nạn trong công tác, đó là: Những cán bộ có trách nhiệm về công tác bảo hộ lao động như giám đốc xí nghiệp, người điều khiển hoặc ra lệnh công tác, cán bộ được ủy nhiệm phụ trách bảo vệ an toàn lao động (Điều 2 Nghị định số 703-TTg ngày 29/2/1956). Những cán bộ, công chức, viên chức khác, do không làm tròn công tác mình phụ trách đã để xảy ra tai nạn. Còn trường hợp bị can là công dân hoặc cán bộ, công nhân viên phạm tội không phải trong công tác thì không định tội danh là “thiếu tinh thần trách nhiệm...” mà phải áp dụng điểm 4 - Thông tư 442-TTg ngày 19/01/1955 theo nguyên tắc tương tự về luật để xét xử dưới tội danh: khinh suất gây tai nạn.

+ Sự thiệt hại phải nghiêm trọng: Đó là những hành vi đã gây ra những tổn thất lớn không thể sửa chữa được hoặc muốn sửa chữa phải tốn rất nhiều công của, như: làm bị thương nặng, làm chết người, hoặc gây tổn thất lớn cho tài sản nhà nước. Đối với những hành vi gây thiệt hại nhỏ như làm người khác bị thương nhẹ phải nghỉ việc 10 ngày, không làm giảm sút sức lao động, hoặc làm thiệt hại ít về tài sản thì không coi là tội phạm hình sự và chỉ cần thi hành kỷ luật hành chính hoặc biện pháp tác động xã hội để giáo dục, phòng ngừa tai nạn. Đối với những hành vi vi phạm nghiêm trọng nội quy an toàn có khả năng gây thiệt hại rất lớn về người và về của như vi phạm nội quy an toàn ở hầm mỏ, ở kho chứa chất nổ, chứa nhiên liệu đặc biệt..., thì dù tai nạn chưa xảy ra, cũng cần phải trừng phạt.

- Sẽ không coi là phạm tội thiếu tinh thần trách nhiệm nếu người để xảy ra tai nạn không có khả năng thấy trước được tai nạn và đã chấp hành đầy đủ, thận trọng quy tắc an toàn lao động. Có những trường hợp do tai họa thiên nhiên như, bão, lụt; v.v... chưa được cơ quan khí tượng dự báo hoặc do thiếu kinh nghiệm, thiếu trình độ chuyên môn, kỹ thuật kém, năng lực trí tuệ non yếu hoặc do một hoàn cảnh cụ thể nào khác chi phối cho nên không thấy trước được tai nạn, thì phải coi là sự kiện bất ngờ và không coi là phạm tội.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 135 trang tài liệu này.

Tiếp sau đó, để bảo đảm về đường lối xét xử được chính xác, tại bản tổng kết số 10 - NCPL ngày 08/01/1968 của Tòa án nhân dân tối cao tiếp tục hướng dẫn đường lối xử lý tội “vì thiếu tinh thần trách nhiệm, vi phạm quy tắc an toàn lao động, gây thiệt hại nghiêm trọng về người, về tài sản” có quy định như sau:

- Về khách quan, phải có hành vi vi phạm quy tắc an toàn lao động, các biện pháp về vệ sinh công nghiệp, và hành vi này đã gây ra tác hại nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng. Điều đó đồng nghĩa với việc khi nghiên cứu hồ sơ thẩm phán phải đối chiếu hành vi của bị cáo với các quy phạm, quy trình về kỹ thuật an toàn, các biện pháp về vệ sinh công nghiệp cho từng ngành, từng nghề, từng việc; v.v... để xem các quy phạm, quy trình, biện pháp này đã được chấp hành nghiêm chỉnh hay chưa. Nếu có hành vi (hành động hoặc không hành động) trái với quy tắc an toàn lao động, vệ sinh công nghiệp, và do đó đã gây ra tác hại nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng, thì có yếu tố cấu thành tội phạm. Các quy phạm, quy trình đó là những điều kiện của lao động an toàn nhằm mục đích bảo vệ tính mạng, sức khỏe và khả năng lao động của người lao động, còn vi phạm các quy phạm, quy trình kỹ thuật khác mà mục đích là hướng dẫn tiến hành sản xuất, vận hành máy móc, tránh lãng phí; v.v... thì không phải là vi phạm quy tắc an toàn lao động. Mặt khác, đối với những người không trực tiếp sản xuất (cán bộ lãnh đạo, người hướng dẫn sản xuất; v.v...) có hành vi vi phạm hay không, sẽ căn cứ vào việc họ có tôn trọng các quy tắc an toàn lao động hay không, cũng như việc họ có thực hiện đúng hay không các chế độ, thể lệ, quy định trách nhiệm cho từng loại cán bộ trong việc bảo hộ lao động.

Các tội phạm khác về chức vụ theo luật hình sự Việt Nam trên cơ sở nghiên cứu số liệu địa bàn thành phố Hồ Chí Minh - 5

Thiệt hại được coi là nghiêm trọng khi có người chết hay bị thương nặng. Thương tích được coi là nặng hay nhẹ không đơn thuần căn cứ vào số ngày nghỉ việc nhiều hay ít mà căn cứ vào tính chất của thương tích, có gây

cố tật hay không, đã làm giảm sút hay mất hẳn khả năng lao động. Đối với thiệt hại về tài sản, để đánh giá thế nào là thiệt hại nghiêm trọng cần căn cứ vào tính chất, số lượng tài sản bị thiệt hại, đối chiếu với hoàn cảnh, địa điểm, thời gian của hành vi vi phạm. Cần quy thành tiền giá trị của tài sản bị thiệt hại và phải tính đến các thiệt hại vật chất và phi vật chất khác... Đồng thời chỉ đặt vấn đề truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội khi họ có thể và lường trước được những hậu quả sẽ xảy ra, còn hậu quả nào có tính chất hoàn toàn bất ngờ thì không truy cứu trách nhiệm hình sự.

Về chủ quan, bị cáo đã phạm tội vì thiếu tinh thần trách nhiệm: Thiếu tinh thần trách nhiệm ở đây không đồng nghĩa với thái độ công tác không tích cực, mà có nghĩa là bị cáo đã không chấp hành đầy đủ các quy phạm, quy trình về kỹ thuật an toàn, các biện pháp về vệ sinh công nghiệp, các chế độ, thể lệ bảo hộ lao động. Yếu tố chủ quan này cũng thể hiện bị cáo không có mục đích phá hoại, không có động cơ tham lam tư lợi, hay nói cách khác bị cáo phạm tội khi không có lỗi có ý trực tiếp... Khi đánh giá lỗi của bị cáo cần xét trước hết là trình độ hiểu biết của họ về kỹ thuật an toàn, bảo hộ lao động. Nếu trước đó họ đã nắm được các quy phạm, quy trình rồi nhưng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng thì có thể truy cứu trách nhiệm hình sự được, còn nếu họ không được tập huấn hay phổ biến và quy trình, quy phạm thì trách nhiệm hình sự của họ có thể được xem xét giảm nhẹ.

Đối với các tội phạm khác về chức vụ khác, theo đó, năm 1970, Nhà nước ban hành hai Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa và Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân ngày 21/10/1970 nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc đấu tranh phòng, chống các tội xâm phạm sở hữu, bảo vệ tài sản, cơ sở vật chất cho xã hội. Trong hai pháp lệnh trên chủ yếu tập trung xử lý các tội phạm về chức vụ, tham nhũng, sở hữu như: tội tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa (Điều 8); tội cố ý làm

trái nguyên tắc, chính sách, chế độ, thể lệ về kinh tế, tài chính, gây thiệt hại đến tài sản xã hội chủ nghĩa (Điều 12) trong Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa; tội lạm dụng chức quyền, để chiếm đoạt tài sản riêng của công dân (Điều 8) trong Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản riêng của công dân.

Tuy vậy, trong đó đó cũng có một số tội phạm khác về chức vụ như: Tội thiếu tinh thần trách nhiệm, gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản xã hội chủ nghĩa trong Pháp lệnh trừng trị các tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa quy định tại Điều 14:

1. Kẻ nào có nhiệm vụ trực tiếp trong công tác quản lý tài sản xã hội chủ nghĩa, vì thiếu tinh thần trách nhiệm mà không chấp hành hoặc chấp hành không đúng các nguyên tắc, chính sách, chế độ, thể lệ, để mất mát, hư hỏng, lãng phí, gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản xã hội chủ nghĩa thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 7 năm.

2. Phạm tội trong trường hợp gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì bị phạt tù từ 5 năm đến 15 năm” [47].

Trên cơ sở này, Điều 21 về việc trả lại và bồi thường tài sản xã hội chủ nghĩa bị xâm phạm quy định: “Kẻ phạm tội xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa phải trả lại tài sản đó cho Nhà nước hoặc cho tập thể. Nếu tài sản bị xâm phạm không còn nữa hoặc bị hư hỏng thì kẻ phạm tội phải bồi thường”.

Bên cạnh đó, để góp phần bảo đảm chấp hành nghiêm chỉnh các chính sách và pháp luật, tăng cường quản lý Nhà nước; khuyến khích cán bộ, nhân viên nêu cao đức tính liêm khiết; động viên nhân dân phát huy quyền làm chủ tập thể, tích cực đấu tranh chống tệ hối lộ, ngày 20/5/1981, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã ban hành Pháp lệnh trừng trị tội hối lộ.

Theo đó, Điều 1 quy định tội hối lộ bao gồm: Nhận hối lộ, đưa hối lộ và môi giới hối lộ. Liên quan đến các tội phạm khác về chức vụ, để bảo

đảm tương ứng với tội nhận hối lộ, Điều 3 quy định về đưa hối lộ, môi giới hối lộ như sau: “Người nào đưa hối lộ hoặc môi giới hối lộ thì bị phạt tù từ 6 tháng đến 5 năm”.

Điều 4 quy định về lợi dụng ảnh hưởng đối với người có chức, có quyền để phạm tội. Theo đó, “người nào trực tiếp hoặc qua trung gian nhận tiền của hoặc lợi ích vật chất khác dưới bất kỳ hình thức nào để thúc đẩy người có chức vụ, quyền hạn làm những việc nói ở Điều 2 thì bị xử phạt theo Điều 2”.

Điều 5 quy định về những trường hợp cần xử nặng, theo đó, “người nhận hối lộ, đưa hối lộ hoặc môi giới hối lộ trong những trường hợp sau đây thì bị phạt tù đến 15 năm:

a) Phạm tội hối lộ có tổ chức;

b) Phạm tội hối lộ nhiều lần;

c) Dùng thủ đoạn xảo quyệt để thực hành hối lộ;

d) Của hối lộ có giá trị lớn;

đ) Lợi dụng chức vụ cao để nhận hối lộ;

e) Phạm tội hối lộ gây hậu quả nghiêm trọng”.

Điều 6 quy định những trường hợp phạm tội hối lộ đặc biệt nghiêm trọng. Phạm tội hối lộ mà gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng thì người phạm tội bị phạt tù đến 20 năm hoặc tù chung thân. Ngoài ra, phạm tội hối lộ nhằm mục đích phản cách mạng thì người phạm tội còn bị trừng trị theo pháp luật hiện hành đối với tội phản cách mạng.

Điều 7 quy định về phạt tiền và tịch thu tài sản. Theo đó, người phạm tội hối lộ nói ở Điều 2 và Điều 3 của Pháp lệnh này còn có thể bị phạt tiền từ 1 đến 3 lần giá trị của hối lộ. Người phạm tội hối lộ nói ở Điều 5 và Điều 6 có thể bị phạt tiền đến 5 lần giá trị của hối lộ hoặc bị tịch thu một phần hay là toàn bộ tài sản của mình.

Đặc biệt, để phân hóa trong đường lối xử lý và trên nguyên tắc “nghiêm

trị kết hợp với khoan hồng, trừng trị kết hợp với giáo dục, thuyết phục” trong chính sách hình sự, Điều 8 quy định những trường hợp miễn trách nhiệm hình sự, giảm nhẹ hoặc miễn hình phạt như sau:

1. Người phạm tội hối lộ, trước khi bị phát giác, chủ động khai rõ sự việc, giao nộp đầy đủ của hối lộ, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự; nếu là phạm tội nghiêm trọng thì có thể được giảm nhẹ hình phạt.

2. Người phạm tội hối lộ, sau khi bị phát giác, tỏ ra thành thực hối cải, khai rõ sự việc, giao nộp đầy đủ của hối lộ, thì có thể được giảm nhẹ hình phạt.

3. Người phạm tội hối lộ lần đầu và không nghiêm trọng, sau khi bị phát giác, tỏ ra thành thực hối cải, khai rõ sự việc, giao nộp đầy đủ của hối lộ, thì có thể được miễn hình phạt”.

Tương tự, Điều 9 quy định trường hợp được coi là không có tội. Người bị ép buộc đưa hội lộ, nếu chủ động khai báo trước khi bị phát giác, thì được coi là không có tội. Ngoài ra, Điều 11 quy định về xử lý của hối lộ như sau:

1. Của hối lộ và tài sản do hối lộ mà có đều bị Nhà nước tịch thu; nếu đã tiêu dùng rồi, thì người phạm tội hối lộ phải nộp lại Nhà nước bằng tiền.

2. Trong trường hợp được miễn trách nhiệm hình sự nói ở điểm 1 Điều 8 của Pháp lệnh này, người đưa hội lộ được trả lại một phần hoặc toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ; nếu người nhận hối lộ đã tiêu dùng rồi, thì phải trả lại bằng tiền cho người đưa hối lộ.

3. Người bị ép buộc đưa hối lộ nói ở Điều 9 của Pháp lệnh này được trả lại toàn bộ của đã dùng để đưa hối lộ”.

Như vậy, có thể thấy, ngay từ khi Bộ luật hình sự chưa được pháp điển hóa, quy định của pháp luật về các tội phạm về chức vụ nói chung, các tội

Xem tất cả 135 trang.

Ngày đăng: 01/02/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí