xem xét, giải quyết các ý kiến của cử tri và Nhân dân chưa được thể hiện rò ràng. Mặc dù tỉ lệ phúc đáp, giải quyết là 100%, nhưng trên thực tế, có những văn bản trả lời của các cơ quan có thẩm quyền chỉ dừng lại ở việc giải thích, trình bày nội dung các văn bản pháp luật có liên quan, hoặc hứa hẹn “sẽ tiếp tục nghiên cứu, sớm giải quyết”; kết quả xử lí cụ thể hay những cam kết xem xét, giải quyết các vấn đề mà cử tri và Nhân dân bức xúc còn hạn chế. Ví dụ, “trong kỳ họp thứ 5 của Quốc hội khóa XIV, Chính phủ, các bộ, ngành đã tiếp nhận 2.004 kiến nghị, nội dung các kiến nghị này đã được xem xét, giải quyết, trả lời đạt 100%. Tuy nhiên, hầu hết các kiến nghị đều được trả lời ở dạng giải trình hoặc cung cấp thông tin về các quy định của pháp luật, chiếm 79,79%; số các kiến nghị được xem xét, giải quyết chỉ đạt 5,14%; còn lại 302 kiến nghị đang tiếp tục được nghiên cứu để giải quyết, chiếm 15,07%” [98, tr.3].
Ba là, kiểm soát việc tổ chức thực thi pháp luật thông qua hoạt động tiếp công dân, tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo
Tổ chức tiếp công dân, tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo là một trong những phương thức để các tổ chức chính trị - xã hội kiểm soát quyền lực nhà nước. Thông qua việc thực hiện các phương thức này, các tổ chức chính trị - xã hội góp phần phản ánh các ý kiến của người dân đối với tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; kiểm soát hoạt động giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan nhà nước nhằm đảm bảo những công việc này được tiến hành khách quan, đúng quy định, bảo vệ quyền lợi cho các tổ chức, cá nhân.
Hoạt động tổ chức tiếp công dân được UB MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp thực hiện tại trụ làm việc từ nhiều năm nay. Ở Trung ương, từ năm 2015, các tổ chức chính trị - xã hội đã phối hợp với các cơ quan nhà nước Trung ương tổ chức tiếp dân tại Trụ sở tiếp dân Trung ương. Ở địa phương, đến năm 2017, tất cả cơ quan UB MTTQ Việt Nam cấp tỉnh có phòng tiếp dân, trên 80% cơ quan UB MTTQ Việt Nam cấp huyện thực hiện việc tiếp dân tại nơi làm việc” [101, tr.52]. Trong những năm gần đây các tổ chức chính trị - xã hội tăng cường phối hợp với các cơ quan, tổ chức (như Thanh tra Chính phủ, Liên đoàn Luật sư Việt Nam)
áp dụng các hình thức hỗ trợ pháp lý cho công dân trong quá trình tổ chức hoạt động tiếp dân. Từ tháng 11/2014 đến hết tháng 10/2018, Mặt trận đã phối hợp với Liên đoàn Luật sư Việt Nam cử 758 lượt luật sư tư vấn cho 2869 lượt công dân tại Trụ sở tiếp dân Trung ương và hơn 60.000 lượt công dân ở 3 cấp tỉnh, huyện, xã. Các tổ chức chính trị - xã hội thành viên cũng áp dụng nhiều hình thức hỗ trợ pháp lý cho các thành viên, hội viên và nhân dân tại trụ sở tiếp dân của mình. Nỗ lực không ngừng đổi mới phương thức tiếp dân của các tổ chức chính trị - xã hội đã góp phần tạo các điều kiện thuận lợi để nhân dân phản ánh ý kiến của mình với nhà nước, qua đó phát hiện các sai phạm trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước, kịp thời có kiến nghị sửa đổi nhằm nâng cao chất lượng hoạt động cũng như bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.
Hoạt động xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân để chuyển kiến nghị đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, giải quyết và theo dòi việc giải quyết kiến nghị cũng đạt được nhiều kết quả quan trọng. Trong 3 năm (2014, 2015, 2016), UB Trung ương MTTQ Việt Nam “nhận được 15.867 đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân, trong đó có 2.885 đơn được chuyển đến các cơ quan nhà đề nghị giải quyết và nhận được 596 công văn trả lời và thông báo tiến độ, kết quả giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan có thẩm quyền” [101, tr.53-54].
Hoạt động giám sát việc thi hành pháp luật về khiếu nại, tố cáo của cơ quan nhà nước có thẩm quyền cũng được triển khai và bước đầu phát huy hiệu quả thực tế. Trong 5 năm (2014 - 2018), “tổ chức được 10 cuộc giám sát ở Trung ương và 187 cuộc giám sát ở địa phương” [102, tr.5]. Sau mỗi đợt giám sát, các đoàn giám sát đều có báo cáo tổng hợp và văn bản đề xuất, kiến nghị gửi các cơ quan có thẩm quyền để xem xét, giải quyết. Ngoài ra, các tổ chức chính trị - xã hội cũng tham gia với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền góp phần giải quyết nhiều vụ việc khiếu nại, tố cáo phức tạp, kéo dài ở các địa phương trên cả nước.
Tuy nhiên, tổ chức hoạt động giám sát giải quyết khiếu nại, tố cáo của MTTQ chưa chủ động, nhiều lúc mang tính hình thức; lúng túng trong việc lựa chọn nội dung, đối tượng giám sát; phương pháp thực hiện còn đơn điệu, chưa thực hiện đến
Có thể bạn quan tâm!
- Năng Lực Đội Ngũ Cán Bộ Của Các Tổ Chức Chính Trị - Xã Hội Trong Hoạt Động Kiểm Soát Quyền Lực Nhà Nước
- Các Tổ Chức Chính Trị - Xã Hội Kiểm Soát Việc Tổ Chức Quyền Lực Nhà Nước
- Kiểm Soát Hoạt Động Tổ Chức Thi Hành Pháp Luật Của Các Cơ Quan Nhà Nước
- Các Tổ Chức Chính Trị - Xã Hội Giám Sát Hoạt Động Của Cán Bộ, Công Chức, Viên Chức Nhà Nước
- Nâng Cao Hiệu Quả Kiểm Soát Quyền Lực Nhà Nước Của Các Tổ Chức Chính Trị - Xã Hội Phải Gắn Liền Với Đổi Mới, Kiện Toàn Hệ Thống Chính Trị
- Nâng Cao Hiệu Quả Kiểm Soát Quyền Lực Nhà Nước Của Các Tổ Chức Chính Trị - Xã Hội Phải Đáp Ứng Xu Thế Dân Chủ Hóa Đời Sống Xã Hội
Xem toàn bộ 195 trang tài liệu này.
nơi đến chốn, nhiều lúc chỉ thông qua báo cáo của các đơn vị được giám sát. Theo dòi việc thực hiện các kiến nghị sau giám sát chưa được chú ý. Nhiều vụ việc khiếu kiện phức tạp, kéo dài nhưng không được quan tâm giải quyết triệt để nên gây bức xúc trong nhân dân.
Hiệu lực pháp lý kiểm soát hoạt động thực thi quyền lực nhà nước thông qua việc tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo của MTTQ còn hạn chế, tỷ lệ trả lời của các cơ quan có thẩm quyền đối với các đơn thư khiếu nại do MTTQ chuyển đến còn thấp (khoảng 20% giai đoạn 2014 - 2016). MTTQ chưa chủ động trong việc triển khai các chương trình giám sát cũng như phát hiện các sai phạm trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của cơ quan chức năng. Những kết quả đạt được trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo chủ yếu là nhờ phối hợp với các cơ quan hữu quan (như Thanh tra Chính phủ) mới có đủ hiệu lực pháp lý để được xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.
Bốn là, kiểm soát việc tổ chức thực thi pháp luật thông qua việc tham gia phòng, chống tham nhũng, lãng phí
Theo quy định của pháp luật, các tổ chức chính trị - xã hội tham gia phòng, chống tham nhũng với các nội dung cơ bản: “Tuyên truyền pháp luật về phòng, chống tham nhũng”; “Cung cấp thông tin và phối hợp với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền trong việc phát hiện, xác minh, vụ việc tham nhũng, xử lý người có hành vi tham nhũng”; “Yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có thẩm quyền áp dụng biện pháp phòng ngừa tham nhũng, xác minh vụ việc tham nhũng”; “Kiến nghị cơ quan Nhà nước bảo vệ, khen thưởng đối với người có công phát hiện, tố cáo tham nhũng” [72, tr.23]. Trên thực tế, bằng nhiều phương thức khác nhau, các tổ chức chính trị - xã hội tham gia ngày càng có hiệu quả vào công tác phòng, chống tham nhũng, kiểm soát nhằm đảm bảo hoạt động thực thi quyền lực nhà nước của được thực hiện đúng mục đích và có hiệu quả.
Thứ nhất, các tổ chức chính trị - xã hội thường xuyên cử đại diện tham gia các hoạt động giám sát, kiểm tra, thanh tra việc thực hiện các quy định của pháp luật về công khai, minh bạch trong tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước; giám
sát việc kê khai tài sản, thu nhập cá nhân của cán bộ, công chức, đảng viên, những người có chức vụ, quyền hạn trong bộ máy nhà nước. Qua đó, góp phần hạn chế các hành vi tham nhũng, trục lợi cá nhân; tăng cường công khai, minh bạch trong tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước.
Thứ hai, các tổ chức chính trị - xã hội thông qua nhiều phương thức khác nhau như tiếp công dân, tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo; tiếp xúc cử tri;… tiến hành thu thập thông tin, tiếp nhận các đơn thư, ý kiến phản ánh từ người dân về hành vi tham nhũng của cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước; có kiến nghị với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền xem xét, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật. Nhiều vụ án sai phạm, tham nhũng lớn (như sai phạm đất đai ở Đà Nẵng, Thủ Thiêm - thành phố Hồ Chí Minh,…) do nhân dân kiến nghị, thông qua các tổ chức chính trị - xã hội phản ánh đến Quốc hội và được điều tra, xử lí đã mang lại hiệu quả tích cực cho hoạt động kiểm soát quyền lực nhà nước của các tổ chức chính trị - xã hội, góp phần xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch và củng cố lòng tin của Nhân dân.
Thứ ba, các tổ chức chính trị - xã hội bước đầu khai thác, sử dụng các cơ quan báo chí (như Tạp chí Mặt trận, Báo Đại đoàn kết và các tờ báo của các tổ chức thành viên) để tham gia vào cuộc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Thông qua việc đưa tin, đăng bài phản ánh về các hành vi tham nhũng; tuyên truyền, vận động nhân dân tham gia phòng, chống tham nhũng; lên án, phê phán các hành vi tham nhũng;… các tổ chức chính trị - xã hội góp phần quan trọng vào cuộc đấu tranh chung của toàn thể xã hội về phòng chống, tham nhũng, từng bước xây dựng bộ máy nhà nước trong sạch, vững mạnh, hiệu lực, hiệu quả.
Thứ tư, các tổ chức chính trị - xã hội, thông qua các hoạt động lấy phiếu tín nhiệm; giám sát cán bộ, công chức, đảng viên ở khu dân cư; giám sát viêc thực hiện công khai, minh bạch và trách nhiệm người đứng đầu; đặc biệt thông qua hoạt động của Ban Thanh tra nhân dân và Ban Giám sát đầu tư cộng đồng, đã có những đóng góp đáng kể cho hoạt động phòng, chống tham nhũng ở cấp cơ sở. Nhiều sai phạm trong công tác thực thi pháp luật, lợi dụng quyền hạn để trục lợi cá nhân ở các lĩnh vực: quản lý đất đai, đền bù giải phóng mặt bằng; thực hiện chính sách đối với
người có công; cấp giấy phép xây dựng; tình trạng lạm thu của chính quyền cơ sở;… được phát hiện, kiến nghị xử lí kịp thời, góp phần đảm bảo dân chủ cơ sở và nâng cao năng lực hoạt động của chính quyền địa phương.
Tuy nhiên, hoạt động kiểm soát việc thực thi quyền lực nhà nước thông qua tham gia phòng, chống tham nhũng, lãng phí của các tổ chức chính trị - xã hội chưa được tiến hành đều đặn, thường xuyên, liên tục. Ngoài các hoạt động tuyên truyền, tiếp nhận thông tin, việc tham gia xác minh, giải quyết vụ việc tham nhũng và giám sát việc thực hiện pháp luật về phòng, chống tham nhũng của các tổ chức chính trị - xã hội còn gặp nhiều hạn chế, còn thiếu cơ sở pháp lý, thiếu nhân lực có chuyên môn và trình độ phù hợp. Số lượng các phát hiện, kiến nghị xử lí hành vi tham nhũng chưa nhiều, hiệu quả thực tế đạt được chưa cao.
Năm là, kiểm soát việc tổ chức thực thi pháp luật thông qua hoạt động của Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng
Ban thanh tra nhân dân là tổ chức của quần chúng nhân dân ở cơ sở do UB MTTQ cấp xã tổ chức, chỉ đạo hoạt động. Ban thanh tra nhân dân là chủ thể thực hiện quyền giám sát đồng thời là phương tiện để nhân dân tham gia giám sát hoạt động của các cơ quan, công chức nhà nước, xây dựng chính quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Hệ thống Ban thanh tra nhân dân được chú trọng phát triển, “đến năm 2018, cả nước có 10.956 Ban thanh tra nhân dân, với tổng số ủy viên là
94.184 người” [102, tr.10].
Hoạt động giám sát của Ban thanh tra nhân dân tập trung vào các nội dung chủ yếu: giám sát việc thực hiện chính sách, pháp luật ở cơ sở; giám sát việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của UBND xã, phường, thị trấn; giám sát việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Trong khoảng thời gian từ năm 2009 đến năm 2015, các Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư cộng đồng trên cả nước “đã tiến hành được 357.958 cuộc giám sát, 236.982 cuộc thanh tra, kiến nghị với chính quyền cơ sở xử lý 130.820 vụ việc vi phạm” [102, tr.10]. Trong 5 năm (2014 - 2018), “tổng số cuộc giám sát do Ban thanh tra nhân dân tiến hành là 189.461 cuộc, giá trị tiền thu hồi cho nhà nước là 6.100.125.000 đồng” [102, tr.10].
Từ năm 2006, thực hiện Quy chế giám sát đầu tư cộng đồng của Thủ tướng chính phủ, UB Trung ương MTTQ Việt Nam chủ trương thành lập thêm các Ban giám sát đầu tư cộng đồng để tăng cường hoạt động giám sát của nhân dân. Đến năm 2018, “hầu hết các địa phương đều thành lập Ban giám sát đầu tư cộng đồng, với tổng số 12.946 ban, tổng số ủy viên là 92.285 người”. Từ năm 2014 đến năm 2018, Ban giám sát đầu tư cộng đồng “đã tiến hành 173.929 cuộc giám sát, tổng giá trị tiền thu hồi là 11.883.943.000 đồng” [102, tr.10].
Qua phân tích thực trạng hoạt động của Ban thanh tra nhân dân và Ban giám sát đầu tư cộng đồng cho thấy các tổ chức này đã phần nào thực hiện được vai trò của mình trong việc kiểm soát chính quyền cơ sở; là công cụ, phương tiện để nhân dân tham gia quản lý nhà nước và xã hội, thực hiện quyền “dân kiểm tra” trong quy chế dân chủ cơ sở. Thông qua việc thanh tra, giám sát của mình đã phát hiện nhiều sai phạm trong quá trình hoạt động của chính quyền cơ sở, đề xuất, kiến nghị xử lí, qua đó góp phần bảo vệ quyền lợi của nhân dân, giúp chính quyền địa phương khắc phục những thiếu sót, hạn chế, nâng cao hiệu quả hoạt động để phục vụ nhân dân.
Tuy nhiên, việc kiểm soát việc tổ chức thực thi pháp luật thông qua hoạt động của Ban thanh tra nhân dân, Ban giám sát đầu tư của cộng đồng vẫn còn nhiều hạn chế, bất cập. Trước hết là chất lượng hoạt động của Ban thanh tra nhân dân và Ban giám sát đầu tư cộng đồng còn thấp, nhiều nơi hoạt động chỉ mang tính hình thức. Theo đánh giá của Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, “tỉ lệ Ban thanh tra nhân dân hoạt động tốt chỉ chiếm khoảng 1/3, số hoạt động trung bình chiếm 15%, số hoạt động yếu kém chiếm đến 25%” [92].
Hiệu quả, hiệu lực pháp lý của hoạt động giám sát chưa cao, số phát hiện, kiến nghị đề xuất chưa nhiều, số tiền thu hồi cho nhà nước thấp. Nhiều đề xuất, kiến nghị không được các cơ quan chức năng xem xét, giải quyết hoặc cố tình trì hoãn. Áp lực, quyền lực tạo ra từ hoạt động giám sát của MTTQ và các tổ chức chính trị - xã hội “chưa mạnh mẽ, chưa thể thiện đúng và đầy đủ quyền lực, chủ quyền của nhân dân” [80, tr.287]. Ví dụ như ở Hà Nội, năm 2016, Ban thanh tra nhân dân và Ban giám sát đầu tư cộng đồng tổ chức được “10.934 cuộc giám sát, số kiến nghị giải
quyết là 3.408, nhưng cơ quan có thẩm quyền chỉ xử lý 760 kiến nghị. Tương tự, ở Nghệ An, số kiến nghị là 1.621, cơ quan có thẩm quyền giải quyết 177 kiến nghị” [101, tr.60].
3.3.2.3. Kiểm soát hoạt động bảo vệ pháp luật của các cơ quan tư pháp
Một là, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp các văn bản quy phạm pháp luật của các cơ quan tư pháp
Theo định của pháp luật, UB Trung ương MTTQ có quyền giám sát tính hợp hiến, hợp pháp các văn bản quy phạm pháp luật của TAND tối cao và VKSND tối cao. Nếu phát hiện sai phạm thì có quyền đề nghị UB Thường vụ Quốc hội, Quốc hội xem xét, quyết định đình chỉ việc thi hành, bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản quy phạm pháp luật trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội. Thực hiện nội dung giám sát này, MTTQ đã bước đầu phát huy được vai trò của mình trong việc giám sát tính hợp hiến, hợp pháp các nghị quyết của Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao; thông tư của Bộ trưởng Bộ Công an, Tư pháp, Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao. Chẳng hạn, qua giám sát, “UB Trung ương MTTQ Việt Nam đã kiến nghị và được Quốc hội đồng ý hủy bỏ những điểm không phù hợp về vấn đề nhà vắng chủ trong Thông tư liên ngành số 03/TTLN ngày 10/8/1996 của TAND tối cao và VKSND tối cao với Điều 225 Bộ Luật dân sự” [64, tr. 107]. Năm 2017, Ban Thường trực Ủy ban Trung ương MTTQ Việt Nam phối hợp với Viện kiểm sát tối cao góp ý vào dự thảo quy chế thi tuyển kiểm sát viên (sửa đổi).
Tuy nhiên, số lượng các văn bản quy phạm pháp luật không hợp hiến, hợp pháp của các cơ quan tư pháp được MTTQ phát hiện và đề nghị bãi bỏ còn rất hạn chế. Hiện vẫn còn nhiều vướng mắc về cơ sở pháp lý, đặc biệt là đội ngũ cán bộ của các tổ chức chính trị - xã hội chưa đáp ứng được các yêu cầu về chuyên môn, nghiệp vụ kiểm tra, giám sát. Mặt trận chưa phát huy tốt vai trò của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, các cá nhân tiêu biểu để phối hợp giám sát các văn bản pháp luật có liên quan đến lĩnh vực hoạt động của họ.
Hai là, giám sát quá trình thực hiện pháp luật về tố tụng của các cơ quan tư
pháp
Các tổ chức chính trị - xã hội theo dòi, xem xét, đánh giá quá trình thực hiện
pháp luật về tố tụng của cơ quan tư pháp từ điều tra, tố tụng đến xét xử, thi hành án và đặc xá, đảm bảo các hoạt động này tuân thủ các quy định của Hiến pháp, pháp luật; kịp thời phát hiện những sai phạm, hạn chế và kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền để có biện pháp xử lý nhằm góp phần xây dựng nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ quyền con người, quyền công dân.
Thông qua hoạt động tiếp công dân, tham gia giải quyết khiếu nại, tố cáo, các tổ chức chính trị - xã hội đã tiếp nhận hàng nghìn đơn thư của người dân liên quan đến các kết quả điều tra, truy tố, xét xử của cơ quan công an, VKSND và TAND các cấp. MTTQ và các tổ chức thành viên đã có các văn bản kiến nghị đến các cơ quan có thẩm quyền xem xét, giải quyết đúng quy định của pháp luật nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Một số vụ án lớn tiêu biểu do MTTQ kiến nghị và được VKSND tối cao và TAND tối cao đồng ý sửa đổi các bản án như “vụ nhập khẩu 118 ô tô tay lái nghịch ở thành phố Hồ Chí Minh; vụ giết người, hiếp dâm ở Đầm Dơi (Cà Mau); vụ án đánh bệnh binh bị thương nặng ở Thuận Thành (Bắc Ninh)”; “năm 2010, UB Trung ương MTTQ Việt Nam kiến nghị Bộ trưởng Bộ Công an, Viện trưởng VKSND tối cao, Chánh án TAND tối cao về việc xem xét lại bản án Nông trường Sông Hậu (Cần Thơ)” [13, tr.129].
UB Trung ương MTTQ Việt Nam còn ký kết các Kế hoạch liên ngành với Bộ Công an, VKSND tối cao và TAND tối cao tổ chức các đoàn giám sát, kiểm tra công tác giám sát việc chấp hành pháp luật trong công tác tạm giữ, tạm giam, thi hành án hình sự nhằm đảm bảo các hoạt động này tuân thủ các quy định của pháp luật, hạn chế tính trạng lạm quyền, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
UB MTTQ tham gia các hội đồng tư vấn đặc xá, thẩm định hồ sơ đề nghị xét đặc xá, giám sát việc thi hành quyết định đặc xá và các văn bản pháp luật có liên quan. Trong quá trình tham gia đã phát hiện nhiều trường hợp được đề nghị đặc xá chưa đủ điều kiện, tiêu chuẩn, kịp thời kiến nghị giải quyết theo quy định của pháp