Tuy nhiên, tác giả cũng đồng quan điểm với ý kiến cho rằng không nên giới hạn việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ này đối với những người phạm tội nói trên mà cần căn cứ vào nhiều tình tiết khác và từng trường hợp cụ thể để vận dụng cho phù hợp [7, tr.41]. Theo tác giả thì Tòa án quân sự khu vực 1 Quân khu 7 áp dụng tình tiết này cho bị cáo là phù hợp.
Ngoài ra, tình tiết “gây thiệt hại không lớn” cho đến hiện nay chưa có văn bản nào hướng dẫn, trong trường hợp gây thiệt hại về tài sản thi bao nhiều tiền là không lớn, hay về sức khỏe thì tổn hại bao nhiêu phần trăm được gọi là không lớn, như thế nào là chưa gây thiệt hại. Việc định lượng đánh giá phụ thuộc hoàn toàn vào nhận định của Hội đồng xét xử trong từng tội phạm cụ thể. Trong nhận thức hiện nay, nhiều nơi nhận cho rằng việc bị cáo hoàn thành hành vi cướp giật tài sản thì thiệt hại đã được xác định dựa trên giá trị của tài sản bị cướp, không phụ thuộc vào việc đã được thu hồi lại do lý do khách quan.
2.3.3. Vướng mắc trong áp dụng tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”
Trên thực tế, vướng mắc trong việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ này thực sự không phổ biến. Việc áp dụng tình tiết này chỉ cần xem xét thỏa mãn cả hai điều kiện là “phạm tội lần đầu” và “thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”. Tuy vậy, thì trên thực tế địa bàn Quân khu 7 cũng xảy ra một trường hợp mà có sự khác nhau về việc áp dụng giữa Cơ quan điều tra đối với Viện kiểm sát và Tòa án trong việc giải quyết vụ án hình sự trên địa bàn Quân khu 7 liên quan đến vướng mắc nêu trên:
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 02/2021/HS-ST ngày 29/01/2021 của Tòa án Quân sự khu vực Quân khu 7 xét xử bị cáo Đinh Văn Phúc về tội “Trộm cắp tài sản”, “Đào ngũ” và “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”, hành vi phạm tội và kết quả giả quyết được tóm tắt như sau: Đinh Văn Phúc là chiến sĩ nhập ngũ tháng 02/2020 tại Trung đoàn 271 Sư Đoàn 5, Quân khu 7. Vào khoảng 03 giờ 30 phút ngày 03/7/2020, sau khi gác xong ca đêm tại Sở Chỉ huy thì trở về đơn vị nhưng không vào ngủ mà nảy sinh ý định rời đơn vị. Đến khoảng 3 giờ 45 phút. Phúc vào nhà kho của trung đội lấy một bộ quần áo thường phục được giấu sẵn tại đây, sau đó
lén lút qua phòng họp của Đại đội trộm cắp 01 điện thoại di động hiệu iPhone (được định giá tài sản giá trị 2.700.000 đồng) của quân nhân Nguyễn Hoàng Hải là khẩu đội trưởng cùng đơn vị. Phúc rời khỏi đơn vị theo đường nội bộ, khi gần ra đến khu vực dân sư, Phúc thay quân phục bỏ lại và mặc quần áo thường phục rồi đến nhà xe Thành Công gần đó mua vé xe để đi thành phố Hồ Chí Minh. Đến sáng cùng ngày đơn vị báo thức phát hiện Đinh Văn Phúc không có mặt trong đơn vị, đồng thời quân nhân Hải báo mất trộm tài sản. Sau khi phối hợp với gia định, địa phương vận động Phúc quay lại đơn vị không thành công. Đơn vị đã thực hiện quy định tại Thông tư số 16/2000/TT-BQP ngày 21/02/2010 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng thi hành các biện pháp kỷ luật vắng mặt đối với Phúc, đến ngày 21/9/2020 quân nhân Phúc vẫn không trở lại đơn vị. Trung đoàn 271 đã gửi văn bản và hồ sơ vi phạm của Phúc đến Cơ quan Điều tra hình sự khu vực 3 Quân khu 7 để xử lý quân nhân vi phạm theo quy định của pháp luật. Trong thời gian đào ngũ, Phúc xin vào làm việc tại một cơ sở nhôm kính trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 17/8/2020, khi đi thi công công trình nhôm kính tại tại chung cư Mizuki thuộc xã xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh, thành phố Hồ Chí Minh. Anh Ly là người khi làm cùng cơ sở nhôm kính với Phúc đã tin tưởng giao xe môtô biển số 59N1-541.93 và số tiền 8.200.000 đồng nhờ Phúc đi ngân hàng nộp tiền vào tài khoản của anh Ly. Phúc lợi dụng sự tin tưởng của anh Ly nảy sinh ý định chiếm đoạt xe mô tô (được định giá tài sản giá trị
4.000.000 đồng) và tiền của anh Ly bỏ trốn. Cơ quan điều tra hình sự khu vực 3 Quân khu 7 đã khởi tố bị can Đinh Văn Phúc về các tội tội “Đào ngũ” theo quy định tại khoản 1 Điều 402, “Tội trộm cắp tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 173 và tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” theo quy định tại khoản 1 Điều 175 BLHS năm 2015 và ra lệnh truy nã bị can. Khoảng 18 giờ 30 phút ngày 28/10/2020, Phúc bị bắt tại số 309 Nguyễn Thị Định, phường Bình Trưng Tây, Quận 2 Thành phố Hồ Chí Minh. Kết luận điều tra đủ cơ sở ở xác định bị can phạm các tội nêu trên và đề nghị truy tố. Tại bản kết luận điều tra vụ án hình sự đề nghị truy tố số 02/KL-ĐNTT ngày 10/12/2020 của Cơ quan điều tra hình sự nhận định các hành vi phạm tội trên đều có tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội không lớn, phạm tội
Có thể bạn quan tâm!
- Khái Quát Tình Hình Áp Dụng Quy Định Của Pháp Luật Việt Nam Về Các Tình Tiết Giảm Nhẹ Trách Nhiệm Hình Sự.
- Thực Tiễn Áp Dụng Đúng Quy Định Của Pháp Luật Việt Nam Về Các Tình Tiết Giảm Nhẹ Trách Nhiệm Hình Sự .
- Thực Tiễn Áp Dụng Các Quy Định Của Pháp Luật Việt Nam Về Các Tình Tiết Giảm Nhẹ Trách Nhiệm Hình Sự Còn Những Khó Khăn, Vướng Mắc.
- Yêu Cầu Trong Áp Dụng Đúng Quy Định Của Pháp Luật Việt Nam Về Các Tình Tiết Giảm Nhẹ Trách Nhiệm Hình Sự Tại Quân Khu 7
- Nghiên Cứu Sửa Đổi, Bổ Sung Thêm Một Số Tình Tiết Đang Được Xem Xét Giảm Nhẹ Theo Quy Định Tại Khoản 2 Thành Tình Tiết Tại Khoản 1 Điều 51 Blhs
- Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự từ thực tiễn Quân khu 7, Việt Nam - 11
Xem toàn bộ 101 trang tài liệu này.
ít nghiêm trọng. Bị can P phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng nên áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại điểm i khoản 1 điều 51 BLHS năm 2015. Tại bản Cáo trạng số 02/CT-VKS73 ngày 28/12/2020 của Viện Kiểm sát Quân sự khu vực 73 Quân khu 7 không áp dụng tình tiết giảm nhẹ phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng đối với bị can Phúc. Tòa án cũng không xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ “Phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” đối với bị cáo Đinh Văn P, chấp nhận toàn bộ đề nghị truy tố của Viện kiểm sát xử phạt Phúc 02 năm tù, bản án đã có hiệu lực pháp luật.
Tại Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 của TANDTC hướng dẫn, giải đáp về quy định “phạm tội lần đầu thuộc trường hợp ít nghiêm trọng” thì tình tiết này được giải đáp như sau: “Phạm tội lần đầu là từ trước đến nay chưa phạm tội lần nào. Nếu trước đó đã phạm tội và bị kết án, nhưng đã được xóa án tích hoặc chưa bị kết án, nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa bị kết án, chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nay bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong cùng lần phạm tội sau, thì không được coi là phạm tội lần đầu. Phạm tội thuộc trường hợp ít nghiêm trọng là phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây: Phạm tội gây nguy hại không lớn cho xã hội mà mức cao nhất của khung hình phạt đối với tội ấy là đến ba năm tù; Phạm tội nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng nhưng người phạm tội có vị trí,
vai trò thứ yếu, không đáng kể trong vụ án có đồng phạm”.
Quan điểm của tác giả khi đối chiếu theo quy định này, thì bị cáo Phúc thực hành hành vi phạm tội đầu tiên là “trộm cắp tài sản” quy định tại khoản 1 Điều 173 BLHS năm 2015 thuộc trường hợp ít nghiêm trọng, hoàn toàn đủ điều kiện để áp dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS “Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”. Tuy nhiên rò ràng Viện kiểm sát và Tòa án có tính nghiêm khắc nhất định khi xem xét áp dụng tình tiết giảm nhẹ cho quân nhân Đào ngũ và phạm nhiều tội một cách liên tục. Tác giả cho rằng, tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 không phải là tình tiết áp dụng một các tùy nghi, vì vậy việc không quyết định áp dụng cho bị cáo có làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền
của bị cáo trong việc đối mặt với mức án cao hơn khi không có thêm một tình tiết giảm nhẹ nữa?
2.3.4. Một số vấn đề trong áp dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS tại khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015.
Tại khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015 quy định “Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rò lý do giảm nhẹ trong bản án”. Tuy nhiên, vừa qua Viện kiểm sát quân sự trung ương ban hành một số nội dung Thông báo Rút kinh nghiệm công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự năm 2020, đưa ra nội dung đánh giá là vi phạm nghiêm trọng trong thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử đó là “Áp dụng khoản 2 Điều 51 BLHS với lý do bị cáo có ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại được tặng huận chương kháng chiến; Ông ngoại là liệt sĩ; Bố đẻ của bị cáo được Bộ Công an tặng kỷ niệm chương Bảo vệ an ninh Tổ quốc.. không có căn cứ và không đúng tinh thần tại Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/8/2000 của HĐTP TANDTC”.
Theo hướng dẫn tại điểm c mục 5 Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/8/2000, ngoài việc liệt kê một số trường hợp để Tòa án cân nhắc áp dụng tình tiết giảm nhẹ tại khoản 2 Điều 46 BLHS năm 1999, nay là khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015 còn nêu rò “Ngoài ra, khi xét xử, tuỳ từng trường hợp cụ thể và hoàn cảnh cụ thể của người phạm tội mà còn có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rò trong bản án.”. Vậy thì trong trường hợp này, Tòa án tiến hành xem xét, cân nhắc vào trường hợp cụ thể của bị cáo để áp dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS cho bị cáo và thực hiện việc ghi rò lý do trong bản án thì căn cứ nào cho rằng Tòa án quyết định áp dụng là vi phạm nghiêm trọng?
Nếu có căn cứ cho rằng Tòa án đưa ra mức hình phạt không tương xứng với mức độ nguy hiểm cho xã hội của tội phạm do bị cáo đã thực hiện thì Viện kiểm sát thực hiện quyền của mình thông qua kháng nghị. Tuy nhiên việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ tùy nghi nhưng kết quả đưa ra mức hình phạt tương xứng mà thông qua đó lại thể hiện được sự ghi nhận truyền thống tốt đẹp của gia đình bị cáo, làm động
lực cho bị cáo trong việc cải tạo thì rò ràng đã thực hiện đúng mục đích của việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS trong việc giải quyết vụ án, cân bằng giữa sự khoan hồng của nhà nước và tính chịu trách nhiệm của người phạm tội bằng hình phạt do BLHS quy định. Tác giả cho rằng Viện kiểm sát quân sự cấp trung ương có phần nào đó cứng nhắc với việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ tùy nghi và không chấp nhận các tình tiết mới chưa được liệt kê trong các hướng dẫn. Điều này có thể làm giảm tính linh hoạt của cả Kiểm sát viên và áp lực đối với HĐXX khi cân nhắc, áp dụng một tình tiết giảm nhẹ mới.
2.4. Nguyên nhân của những khó khăn, vướng mắc
Trên thực tiễn áp dụng, theo quan điểm của tác giả nhận thấy một số trường hợp nói trên còn tồn tại khó khăn, vướng mắc, chưa hợp lý. Nguyên nhân dẫn đến những khó khăn vướng mắc có thể xác định do:
Thứ nhất, do quy định của pháp luật hiện hành còn một số nội dung chưa rò ràng, gây ra nhiều cách hiểu và nhận thức khác nhau nhưng chưa có văn bản hướng dẫn đầy đủ và thống nhất chung giữa các ngành từ các cơ quan tư pháp cấp trung ương.
Các tình tiết như "hoàn cảnh đặc biệt khó khăn", "hạn chế khả năng nhận thức" là những tình tiết định tính, việc xác định mức độ khó khăn hay mức độ hạn chế hoàn toàn phụ thuộc vào người tiến hành tố tụng, và việc quyết định tình tiết giảm nhẹ này có áp dụng trong trường hợp cụ thể nào đó hoàn toàn phụ thuộc vào nhận định, đánh giá của Tòa án. Chưa có hướng dẫn cụ thể nào làm căn cứ xác định các tình tiết trên áp dụng trong các trường hợp nào.
Cách hiểu và cách xác định mức độ giảm nhẹ cũng chưa có sự thống nhất trong một số tình tiết như xác định mức độ bồi thường thiệt hại so với thiệt hại trên thực tế, bồi thường toàn bộ hay bồi thường một phần, hay bồi thường một phần nhỏ thường đều được áp dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS, nhưng việc xác định giá trị giảm nhẹ bao nhiêu phụ thuộc vào Tòa án, đây cũng là một trong những nguyên nhân có thể dẫn đến sự tùy tiện, lạm dụng và đưa ra quyết định hình phạt không tương xứng với mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo thực hiện.
Ngoài ra, chưa có một chỉ tiêu, hướng dẫn về tiêu chuẩn chung để làm căn cứ
xem xét áp dụng các tình tiết tùy nghi nên việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ tùy nghi chỉ được áp dụng một cách dè dặt, khi xem xét áp dụng một tình tiết chưa được liệt kê thường không đạt được sự thống nhất giữa các cơ quan. Thường thì những tình tiết giảm nhẹ TNHS khác mà chưa được hướng dẫn sẽ không được tòa án áp dụng mà chỉ ghi nhận một phần với tư cách là đánh giá về nhân thân của bị cáo.
Thứ hai, về trình độ năng lực chuyên môn của cán bộ tiến hành tố tụng, đặc biệt là đội ngũ cán bộ thực hiện nhiệm vụ xét xử tại Tòa án còn tồn tại khâu yếu, mặt yếu.
Các thẩm phán hiện nay của Viện kiểm sát quân sự trên địa bàn Quân khu 7 hầu hết có trình độ chuyên môn và dạn kinh nghiệm do có thời gian công tác trong Ngành Tòa án đều từ 20 năm trở lên. Chính vì vậy, về mặt năng lực chuyên môn và trình độ đáp ứng đầy đủ yêu cầu của nhiệm vụ công tác. Nhưng đối với đội ngũ Hội thẩm quân nhân trên thực tế còn nhiều mặt chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Đối với bộ phận quân nhân được bổ nhiệm chức danh Hội thẩm quân nhân nhưng hầu hết tham gia xét xử không chuyên. Việc nghiên cứu hồ sơ vụ án trước xét xử trong thời gian ngắn nên phần nhận định đánh giá bị ảnh hưởng nhiều bởi Thẩm phán. Đối với Hội thẩm quân nhân trong quân đội nói chung, tỉ lệ số lần tham gia án của Hội thẩm quân nhân không nhiều nên hoạt động tham gia xét xử tại phiên tòa còn thụ động. Cá biệt, có Hội thẩm quân nhân không thể hiện được vai trò của mình trong hoạt động xét xử của Tòa án quân sự. Không có hoạt động xét hỏi cũng như đánh giá các tình tiết vụ án, bản thân không độc lập đưa ra ý kiến mà xuôi theo ý kiến của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa. Điều này có thể không giúp phát hiện được những hạn chế, thiếu sót trong đánh giá của Chủ tọa phiên tòa cũng như bổ sung các tình tiết khác có giá trị trong giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đối với bị cáo.
Đối với cán bộ Viện kiểm sát mà đặc biệt là đội ngũ Kiểm sát viên đòi hỏi trình độ chuyên môn và kinh nghiệm trong việc kiểm sát việc giải quyết vụ án ngay từ khâu tiếp nhận và giải quyết nguồn tin về tội phạm. Năng lực đòi hỏi ở kiểm sát viên là sự bao quát và nắm chắc các quy định của pháp luật để đảm bảo hoạt động điều tra, thu thập chứng cứ đảm bảo đúng theo quy định của pháp luật. Chỉ những tài liệu, chứng cứ được thu thập đúng trình tự thủ tục, đảm bảo tính khách quan, có
giá trị chứng minh sự thật khách quan của vụ án và những tình tiết có ý nghĩa trong đánh giá mức độ tăng thêm hay giảm đi mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội mới được sử dụng để xem xét, quyết định hình phạt cho bị cáo. Từ việc có năng lực, nắm chắc quy định của pháp luật mới đề ra được bản yêu cầu điều tra cụ thể, tỉ mỉ và đúng hướng vụ án, đưa ra được báo cáo đề xuất chính xác để làm tham mưu cho Lãnh đạo trong các vấn đề về phê chuẩn biện pháp ngăn chặn cho đến ban hành cáo trạng truy tố và luận tội. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, kiểm sát viên trẻ, ít kinh nghiệm chưa thực hiện tốt các nội dung này, còn để thiếu sót trong công tác kiểm sát, xem nhẹ việc thu thập tài liệu chứng cứ về tình tiết giảm nhẹ. Việc phân tích, đánh giá để áp dụng cho bị cáo không đúng quy định của pháp luật, thiếu sự trao đổi với Điều tra viên và cơ quan chuyên môn để kịp thời tháo gỡ những vướng mắc cũng là một trong những nguyên nhân chủ quan dẫn đến hạn chế trong kết quả thực hiện nhiệm vụ.
Thứ ba, công tác phối hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng chưa nhịp nhàng ở một số thời điểm, một số vụ án.
Công tác phối hợp giữa các cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành tố tụng là công tác nhằm đảm bảo việc thực hiện các chức năng mà pháp luật quy định được diễn ra một cách nhịp nhàng, thống nhất, phát huy được trí tuệ tập thể.
Liên ngành các cơ quan tố tụng trên địa bàn Quân khu có thống nhất về phương hướng xây dựng quy chế chung trong hoạt động chuyên môn nghiệp vụ nhưng qua thời gian dài chưa xây dựng được quy chế nội bộ này. Bên cạnh đó, có thời điểm các cơ quan chưa thực hiện nghiêm Thông tư liên tịch quy định về việc phối hợp trong các hoạt động điều tra, truy tố, hạn chế trả hồ sơ điều tra bổ sung …nên xảy ra tình trạng không thống nhất được quan điểm, nhận định.
Trong nhiều trường hợp, cán bộ điều tra viên và kiểm sát viên không thực hiện tốt công tác trao đổi, nhận định để đi đến đánh giá thông nhất nên việc xử lý vụ án còn kéo dài. Có trường hợp nhận định và áp dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS không thống nhất giữa các cơ quan dẫn đến không được xem xét và chấp nhận. Việc này cũng ảnh hưởng đến việc đánh giá năng lực của cán bộ và khả năng phối hợp giữa các cơ quan trong tiến hành tố tụng.
Trong quá trình điều tra, kiểm sát viên chưa kiểm sát chặt chẽ, toàn diện và có khi còn thiếu chú ý trong việc yêu cầu thu thập các tình tiết liên quan đến giảm nhẹ TNHS cho bị cáo. Việc này làm bất lợi cho bị cáo và có thể dẫn đến việc trả hồ sơ điều tra bổ sung nếu làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người phạm tội. Theo quy định thì trước khi mở phiên tòa có thể củng cố tài liệu, chứng cứ theo yêu cầu của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa đối với các tình tiết này. Nhưng nếu không làm tốt công tác phối hợp trong xét xử vụ án thì việc không thực hiện được nội dung này dẫn đến việc không đảm bảo giải quyết toàn diện vụ án.
Thứ tư, chất lượng công tác giải quyết kiến nghị chưa hiệu quả. Từng cấp chưa có văn bản hướng dẫn kịp thời về các kiến nghị liên quan đến tình tiết giảm nhẹ TNHS.
Thực tế, các bản án có sự không thống nhất về quan điểm giữa đề nghị của Viện kiểm sát quân sự và quyết định áp dụng tình tiết giảm nhẹ của Tòa án thì kiểm sát viên có báo cáo bằng văn bản thông qua báo cáo kết quả phiên tòa xét xử sơ thẩm và phiếu kiểm sát bản án, Viện kiểm sát cấp sơ thẩm có văn bản kiến nghị nhưng hầu các nội dung này chưa được cấp có thẩm quyền giải quyết để đi đến thống nhất. Việc tổng hợp văn bản đi theo từng cấp từ thấp đến cao sau đó được cơ quan có thẩm quyền giải quyết. Nhưng vẫn có tình trạng kiến nghị của cấp dưới lên từng cấp
xảy ra tình trạng "sót" hoặc "kẹt" lại, tổng hợp và đề nghị không đầy đủ.
Những nội dung khác nhau trong nhận định giữa các cơ quan, các ngành và trên thực tế được báo cáo không được giải quyết và ban hành văn bản thống nhất sẽ tồn tại những khó khăn cho cán bộ được giao nhiệm vụ tố tụng. Cùng một nội dung nhưng hai Ngành có hướng dẫn khác nhau thì mỗi Ngành phải dựa trên quy định của pháp luật để đánh giá lại nội dung hướng dẫn, chỉ đạo của mình để kịp thời có hướng dẫn khác thay thể nếu chưa đúng. Nhưng để làm được nội dung này thì thời gian tiến hành thường theo tổng kết thường niên hoặc tổng hợp chuyên để thì không đảm bảo về mặt thời gian và kịp thời trong công tác áp dụng pháp luật