khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần kích động mạnh” quy định tại Điều 135 BLHS năm 2015
“Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng” quy định tại điểm c khoản 1 Điều 51 và “Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội” quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 51 với trường hợp phạm tội “Giết người do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội” tại Điều 126 và “Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội” tại Điều 136 BLHS năm 2015.
3.1.2.4. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung thêm một số tình tiết đang được xem xét giảm nhẹ theo quy định tại khoản 2 thành tình tiết tại khoản 1 Điều 51 BLHS
Về hướng sửa đổi: Các tình tiết “Người phạm tội là phụ nữ có thai” và “Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên” cần xem xét để lại cách quy định. Bởi lẽ việc thời điểm có thai và thời điểm 70 tuổi có ý nghĩa quyết định đến việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ này. Như phần trên tác giả đã nêu ở phần phân tích những quy định của tình tiết giảm nhẹ trên: Từ trước đến nay quan điểm và nhận thức là việc xác định thời điểm để áp dụng 02 tình tiết giảm nhẹ này là người phạm tội khi thực hiện hành vi phạm tội là phụ nữ đang mang thai hoặc người đủ 70 tuổi. Tuy nhiên hiện nay theo tài liệu giải đáp vướng mắc nghiệp vụ năm 2020 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành sau Hội nghị tập huấn công tác thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử các vụ án hình sự có câu hỏi “Trường hợp sau khi khởi tố, người phạm tội mới có thai thì có được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm n, khoản 1, Điều 51 BLHS không?”, được trả lời như sau: “Đây là quy định thể hiện tính nhân đạo trong chính sách xử lý hình sự; đồng thời điều luật không quy định thời điểm cụ thể của việc mang thai nên cần phải hiểu và áp dụng theo hướng có lợi cho họ. Do đó, trường hợp sau khi bị khởi tố, người phạm tội mới có thai thì vẫn được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự “Người phạm tội là phụ nữ có thai” theo điểm n, khoản 1, Điều 51 BLHS” … Trường hợp tại thời
điểm phạm tội, người phạm tội chưa đủ 70 tuổi, nhưng sau khi khởi tố người phạm tội đủ 70 tuổi có được áp dụng tình tiết giảm nhẹ theo quy định tại điểm o, khoản 1, Điều 51 BLHS không” được trả lời “Tương tự như cách giải thích trên, trường hợp tại thời điểm phạm tội, người phạm tội chưa đủ 70 tuổi, nhưng sau khi khởi tố người phạm tội đủ 70 tuổi thì vẫn được xem xét, áp dụng tình tiết giảm nhẹ “Người phạm tội là người từ đủ 70 tuổi trở lên” [30, tr.17].. Về bản chất của tình tiết giảm nhẹ này là dựa trên tính nhân đạo, bảo vệ bà mẹ, trẻ em, trên yếu tố tâm lý, sức khỏe của 2 loại chủ thể này – chính vì vậy, việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ này theo hướng có lợi theo hướng dẫn của Viện kiểm sát nhân dân tối cao là chưa hoàn toàn chính xác nếu trường hợp từ khoảng thời gian phạm tội đến khi bị điều tra, truy tố, xét xử kéo dài thì hoàn toàn không phù hợp, tác giả cho rằng nên liệt kê trường hợp này để xem xét áp dụng tại khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015 là phù hợp. Đối với nội dung này, tác giả đề xuất sửa đổi điểm n và điểm o khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 thành “Phạm tội khi đang có thai” và “Phạm tội khi đủ 70 tuổi trở lên”
Về hướng bổ sung: Tuy hiện nay không có quy định nào quy định rằng tình tiết giảm nhẹ TNHS quy định tại khoản 1 có giá trị và mức độ giảm nhẹ cao hơn tình tiết giảm nhẹ TNHS tại khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015. Nhưng căn cứ vào các quy định khác thì thấy rằng, chỉ các tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51 mới là điều kiện và căn cứ để xem xét quyết định cho người phạm tội được hưởng án treo, được xử phạt mức hình phạt mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng. Chính vì vậy, cần nghiên cứu, bổ sung thêm một số tình tiết có tính tương xứng với các tình tiết hiện đang quy định tại khoản 1 Điều 51 đảm bảo có lợi cho người phạm tội và đảm bảo tính công bằng.
Ví dụ: Trên thực tế, gia đình người phạm tội thường là chủ thể tiến hành đứng ra bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả trong các trường hợp người phạm tội bị tạm giam – quy định trong các văn bản hướng dẫn và thực tế vẫn áp dụng các trường hợp này người phạm tội được hưởng tình tiết giảm nhẹ tại điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 nếu người phạm tội “đồng ý, tự nguyện để gia đình, nhờ gia đình thay mặt mình”.
Có thể bạn quan tâm!
- Thực Tiễn Áp Dụng Các Quy Định Của Pháp Luật Việt Nam Về Các Tình Tiết Giảm Nhẹ Trách Nhiệm Hình Sự Còn Những Khó Khăn, Vướng Mắc.
- Vướng Mắc Trong Áp Dụng Tình Tiết Giảm Nhẹ “Phạm Tội Lần Đầu Thuộc Trường Hợp Ít Nghiêm Trọng”
- Yêu Cầu Trong Áp Dụng Đúng Quy Định Của Pháp Luật Việt Nam Về Các Tình Tiết Giảm Nhẹ Trách Nhiệm Hình Sự Tại Quân Khu 7
- Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự từ thực tiễn Quân khu 7, Việt Nam - 11
- Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự từ thực tiễn Quân khu 7, Việt Nam - 12
Xem toàn bộ 101 trang tài liệu này.
Tác giả đề xuất nên nghiên cứu gộp trường hợp này vào điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS và cần mở rộng thêm các chủ thể tiến hành các hoạt động tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả như: đại diện cơ sở, tổ chức, cơ quan nơi người phạm tội làm việc, ví dụ như trường hợp “người chủ sở hữu phương tiện tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả trong trường hợp người lái xe thuê phạm tội “Vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” thì người phạm tội cũng được hưởng tình tiết giảm nhẹ…[7, tr.67]
3.1.2.5. Nghiên cứu lại cách thức xây dựng quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015.
Khoản 2 Điều 38 BLHS năm 1985, khoản 2 Điều 41 BLHS năm 1999 đến nay là khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015 đều quy định theo dạng lựa chọn tùy nghi nhưng khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015 lại liệt kê tình tiết “đầu thú” vào chung là không đảm bảo tính phù hợp trong xây dựng văn bản. Việc xác định tình tiết đầu thú để xem xét, quyết định áp dụng là tình tiết giảm nhẹ khác cho người phạm tội là phù hợp nhưng việc quy định dạng liệt kê tình tiết “đầu thú” cũng không làm chuẩn cho việc xem xét các tình tiết khác có giá trị tương tự hay không để áp dụng là tình tiết giảm nhẹ nên việc đưa vào là không cần thiết. Tuy nhiên cần có văn bản hướng dẫn, tổng hợp, liệt kê các tình tiết có thể xem xét áp dụng theo khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2915 trên cơ sở thống nhất giữa các Cơ quan liên ngành Trung ương. Tác giả cũng đồng ý với quan điểm nên giữ nguyên như quy định tại khoản 2 Điều 46 BLHS năm 1999 đồng thời giữ cụm từ “lý do” trong quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015: “Khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rò lý do giảm nhẹ trong bản án”[3, tr.68].
3.2.2. Các giải pháp khác nâng cao hiệu quả quyết định áp dụng pháp luật hình sự về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trên địa bàn Quân khu 7
Thứ nhất, nâng cao năng lực chuyên môn, phẩm chất chính trị, đạo đức và ý thức tuân thủ pháp luật của các chủ thể áp dụng pháp luật
Năng lực chuyên môn của chủ thể áp dụng pháp luật là một trong những yếu tố vô cùng quan trộng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng áp dụng pháp luật mà thể
hiện kết quả chính là Bản án, quyết định của Tòa án. Các chủ thể áp dụng pháp luật trong suốt quá trình giải quyết vụ án mà cụ thể trên địa bàn Quân khu 7 với những vụ án thuộc thẩm quyền xét xử của Tòa án quân sự - là những người có thẩm quyền tiến hành tố tụng tại Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án quân sự. Nếu nói chất lượng hoàn thiện của hệ thống pháp luật là một trong những yêu cầu đầu tiên của quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN thì hiệu quả của việc áp dụng pháp luật được thể hiện phụ thuộc phần lớn vào năng lực chuyên môn của người áp dụng pháp luật.
Chất lượng của đội ngũ cán bộ mà 100% là sĩ quan quân đội nhân dân đang công tác trong các cơ quan tiến hành tố tụng trong quân đội nói chung được đánh giá không chỉ thông qua năng lực chuyên môn mà còn thông qua phẩm chất về chính trị và đạo đức cũng như ý thức tuân thủ pháp luật trong quá trình thực hiện nhiệm vụ. Việc tu dưỡng đạo đức là nội dung được thực hiện thường xuyên và có nền nếp thông qua quán triệt và thực hiện Chỉ thị 05 của Bộ Chính trị, Chỉ thị 87 của Thường vụ Quân ủy Trung ương về đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh gắn với đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động “Phát huy truyền thống, cống hiến tài năng, xứng danh Bộ đội Cụ Hồ thời kỳ mới”. Luôn lạc quan, tự tin; nói đi đôi với làm, nói ít, làm nhiều, ứng xử có văn hoá. nêu cao tự phê bình và phê bình, luôn “tự soi, tự sửa”, gương mẫu thực hành cần, kiệm, liêm, chính trong công tác, sinh hoạt. Kiên quyết đấu tranh chống chủ nghĩa cá nhân, lối sống thực dụng, không để lợi ích cá nhân chi phối, không chạy theo thành tích, giấu giếm khuyết điểm; tích cực bảo vệ đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ pháp luật, bảo vệ người tốt, phê phán, đẩy lùi cái xấu.
Căn cứ vào việc tuyển chọn, thi tuyển, đào tạo cán bộ các ngành Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án nói chung đều đặt ra vấn đề về chất lượng nguồn cán bộ, có tiêu chuẩn về chính trị và đạo đức. Đội ngũ cán bộ áp dụng pháp luật trên địa bàn Quân khu 7 hiện nay cũng đảm bảo chất lượng về mọi mặt. Tuy nhiên một vấn đề mà chủ yếu là Viện kiểm sát và Tòa án trên địa bàn Quân khu 7 đang đối mặt hiện nay là việc thiếu hụt đội ngũ cán bộ và quá trình đào tạo, bồi dưỡng hiện nay chưa
kịp để đáp ứng tổ chức, biên chế của Ngành. Các Thẩm phán đang công tác tại hai cấp Tòa án quân sự chủ yếu là những Thẩm phán lớn tuổi, có thời gian công tác lâu, nhiều kinh nghiệm nhưng trong những năm gần đây chưa có Thẩm phán mới được bổ nhiệm do chưa đủ điều kiện về thời gian công tác và bồi dưỡng nghiệp vụ. Khi đủ điều kiện bổ nhiệm thì bản thân Thẩm phán mới còn trẻ chưa có nhiều kinh nghiệm trong thực tiễn nên thời gian tới sẽ gặp không ít khó khăn trong việc thực hiện nhiệm vụ được giao và có thể dẫn đến sai sót do vấn đề về năng lực chuyên môn và kinh nghiệm thực tiễn. Đối với Viện kiểm sát quân sự hai cấp trên địa bàn Quân khu 7 cũng gặp vấn đề tương tự về nguồn nhân lực, số lượng Kiểm sát viên thiếu nhiều so với biên chế, kiểm sát viên đa số mới bổ nhiệm, năng lực trong thực hành quyền công tố kiểm sát hoạt động điều tra, truy tố, xét xử còn nhiều hạn chế. Đối với cán bộ điều tra, hiện nay đội ngũ cán bộ điều tra của Cơ quan điều tra hình sự trong quân đội được đào tạo cơ bản tại các trường Đại học cảnh sát, Đại học An ninh nhân dân…Tuy nhiên, trong thời gian 05 năm trở lại đây, lực lượng được đào tạo chỉ chuyên về các ngành riêng biệt như Kỹ thuật hình sự, Trinh sát, Điều tra chứ không đào tạo Ngành Luật học chung, trên thực tế tổ chức biên chế của Cơ quan điều tra hình sự không phân biệt cấp phòng ban riêng biệt nên hình thức đào tạo này cũng có ảnh hưởng không nhỏ đến chất lượng thực hiện nhiệm vụ. Vì vậy trong thời gian vừa qua, có cơ quan điều tra đã thực hiện được một nội dung rất hiệu quả là phối hợp và gửi cán bộ đi học tập, thực tập tại Cơ quan Công an cấp tỉnh nơi địa bàn đóng quân để bồi dưỡng kiến thức, kinh nghiệm phục vụ cho công tác nghiệp vụ ở cơ quan mình, Thiết nghĩ đây là một nội dung biện pháp thiết thực và mang lại hiệu quả cao nên cần được nhân rộng, phát huy.
Như những phân tích đã đặt ra cho thấy vấn đề về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ là vô cùng quan trọng. Vấn đề này cần thực hiện thông qua chương trình đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ của từng Ngành. Sự tạo điều kiện của thủ trưởng, lãnh đạo các cấp trong công tác xây dựng đội ngũ cán bộ. Từng cán bộ nâng cao ý thức tự giác trong tự học tập, tự đào tạo thông qua quá trình tiếp thu kinh nghiệm của cán bộ nhiều kinh nghiệm.
Ngoài những nội dung trên, đội ngũ cán bộ áp dụng pháp luật còn phải tự học tập, tu dưỡng để trình độ lý luận chính trị vững vàng, giữ vững phẩm chất đạo đức nghề nghiệp, luôn có tinh thần khách quan, công bằng, vô tư, không vụ lợi cá nhân, xử lý mọi việc có lý, có tình để đảm bảo thực hiện đúng pháp luật các nhiệm vụ được phân công, góp phần để Tòa án có bản án, quyết định đảm bảo tính khách quan, đúng người, đúng tội và mức hình phạt tương xứng.
Bên cạnh đó, công tác kiểm tra, đôn đốc và động viên khen thưởng là một khâu quan trọng nên cần phát động và thực hiện tốt các phong trào thi đua, động viên, khen thưởng kịp thời với cá nhân, tập thể có thành tích tốt và kiên quyết, nghiêm khắc trong phê bình, xử lý đối với cá nhân có sai phạm
Thứ hai, tăng cường phối hợp, trao đổi nghiệp vụ giữa các cơ quan tiến hành tố tụng bao gồm cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án quân sự.
Trên thực tế, đây là điểm mạnh của các cơ quan tố tụng trên địa bàn Quân khu 7 trong thời gian vừa qua. Bằng chứng của công tác phối hợp này là số lượng án trả hồ sơ để điều tra bổ sung, án có kháng nghị do có sai sót xảy ra rất hạn chế. Trong thời gian vừa qua các cơ quan đã thực hiện có hiệu quả Thông tư liên tịch số 06/2013/ TTLT-BCA-BQP-BTC-BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 02/8/2013 hướng
dẫn thi hành quy định của bộ luật tố tụng hình sự về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố và Thông tư liên tịch 05/2005/TTLT-VKSTC- BCA-BQP về Quan hệ phối hợp giữa Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát trong việc thực hiện một số quy định của bộ luật tố tụng hình sự năm 2003, Thông tư liên tịch 01/2010/TTLT-VKSNDTC-BCA-TANDTC hướng dẫn thi hành các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về trả hồ sơ để điều tra bổ sung. Quá trình tổng kết việc thi hành đã đánh giá kết quả đạt được trên phạm vi cả nước và kết quả cũng đạt được tương tự trên địa bàn Quân khu 7. Hiện nay, các Thông tư về quan hệ phối hợp trên được thay thế bằng Thông tư liên tịch số 01/2017/TTLT-BCA-BQP-BTC- BNN&PTNT-VKSNDTC ngày 29/12/2017, Thông tư liên tịch số 04/2018/TTLT- VKSNDTC-BCA-BQP ngày 19/10/2018 và Thông tư liên tịch số 02/2017/TTLT- VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP ngày 22 tháng 12 năm 2017.
Tuy nhiên, trên thực tế nhiều địa phương đã xây dựng được quy chế phối hợp giữa các cơ quan tố tụng trong địa phương mình, từ đó cụ thể hóa công tác phối hợp trên từng giai đoạn cụ thể, từng vụ án, vụ việc cụ thể. Và cũng bằng cách đó, việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS cũng trở lên chính xác và đầy đủ hơn, tránh được việc xảy ra thiếu sót và đạt được sự thống nhất trong áp dụng pháp luật.
Đối với nội dung xây dựng quy chế này, mặc dù đã được đưa ra trong nhiều hội nghị của các Ngành nhưng đến nay chưa xây dựng được, tác giả nhận thấy đây là thiếu sót và khá lớn trong việc bỏ qua một phương thức hiệu quả để nâng cao chất lượng trong áp dụng pháp luật. Trong thời gian tới cần đề xuất xây dựng những quy chế phối hợp như: Quy chế phối hợp trong hoạt động tiếp nhận giải quyết nguồn tin về tội phạm; Quy chế phối hợp trong điều tra truy tố; Quy chế phối hợp trong hạn chế trả hồ sơ điều tra bổ sung giữa Viện kiểm sát và cơ quan điều tra; Quy chế phối hợp giữa Viện kiểm sát và Tòa án trong hạn chế trả hồ sơ điều tra bổ sung giai đoạn xét xử.
Đối với công tác phối hợp, trao đổi giữa các cơ quan tố tụng cần nâng cao chất lượng thông qua tăng cường thực hiện nội dung phối hợp, đánh giá giữa các cán bộ trực tiếp thụ lý vụ án giữa các cơ quan với nhau như: Điều tra viên và Kiểm sát viên, Kiểm sát viên và thẩm phán được phân công thụ lý vụ án. Nâng cao công tác phối hợp giữa Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa cấp trên và cấp dưới trong việc phối hợp một số nhiệm vụ về chuyển vụ án để điều tra, truy tố hoặc xét xử…và các nhiệm vụ khác.
Thứ ba, nâng cao chất lượng của công tác kiểm sát bản án, tăng cường thực hiện chức năng kiến nghị, kháng nghị của VKSQS cấp trên và cùng cấp đối với TAQS
Một trong các công tác đạt hiệu quả trong việc rà soát các thiếu sót và áp dụng sai trong việc giải quyết vụ án hình sự, bao gồm cả việc áp dụng các tình tiết giảm nhẹ ở Viện kiểm sát quân sự hiện nay đang áp dụng đó là việc kiểm tra các Cáo trạng của Viện kiểm sát cấp dưới. Trong nội dung bản Cáo trạng ngoài việc truy tố bị can ra trước Tòa án để xét xử, còn phải ghi nhận đầy đủ các tình tiết giảm nhẹ, tăng nặng trách nhiệm hình sự và các tình tiết khác có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án. Theo quy định của Viện kiểm sát quân sự trung ương, khi ban hành
Cáo trạng, Viện kiểm sát cấp khu vực ngoài gửi cho VKSQS cấp Quân khu còn phải gửi ngay cho Viện kiểm sát quân sự trung ương để kiểm tra, kịp thời khắc phục. Ngoài ra, sau khi xét xử, phải tiến hành báo cáo kết quả của phiên tòa xét xử sơ thẩm bao gồm phần đề nghị của Viện kiểm sát và phần quyết định của Tòa án, bao gồm cả các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Qua công tác này, Viện kiểm sát cấp trên sẽ chủ động và kịp thời nắm được vụ án nào có sự không thống nhất về quan điểm giữa Tòa án và VKS. Sau khi nhận được bản án, Kiểm sát viên VKSQS cấp khu vực được phân công một lần nữa báo cáo bằng văn bản kèm theo bản án cho VKSQS Quân khu và VKSQS trung ương kiểm tra và VKSQS Quân khu để kịp thời nghiên cứu, hoặc phát hiện ra thiếu sót hay áp dụng sai để kịp thời thực hiện kiến nghị. Qua công tác kiểm tra, Viện kiểm sát quân sự trung ương có văn bản thông báo về kết quả kiểm tra bản án, những thiếu sót trong áp dụng pháp luật nói chung
Đối với Tòa án, cần tăng cường công tác kiểm tra của Tòa án cấp trên đối với cấp dưới nhằm kịp thời phát hiện và khắc phục những sai sót, hạn chế trong công tác nghiệp vụ của cấp dưới, đồng thời chủ động kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm nếu thuộc trường hợp phải tiến hành kiến nghị, kháng nghị giám đốc thẩm bản án có hiệu lực của tòa án. Điều 372 BLTTHS năm 2015 quy định “Tòa án nhân dân cấp tỉnh thực hiện việc kiểm tra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án nhân dân cấp huyện để phát hiện vi phạm pháp luật và kiến nghị Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao xem xét kháng nghị.
Tòa án quân sự cấp quân khu thực hiện việc kiểm tra bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án quân sự khu vực để phát hiện vi phạm pháp luật và kiến nghị Chánh án Tòa án quân sự trung ương xem xét kháng nghị”
Thứ tư, nâng cao chất lượng công tác trả lời thỉnh thị và vướng mắc giữa cấp trên và cấp dưới.
Trong quá trình tiếp nhận, thụ lý giải quyết các vụ án hình sự từ giai đoạn giải quyết nguồn tin về tội phạm đến khi xét xử vụ án: khi có khó khăn, vướng mắc các cơ quan cần chủ động báo cáo để xin ý kiến chỉ đạo hoặc giải đáp. Chủ động