Yêu Cầu Trong Áp Dụng Đúng Quy Định Của Pháp Luật Việt Nam Về Các Tình Tiết Giảm Nhẹ Trách Nhiệm Hình Sự Tại Quân Khu 7


Tiểu kết chương 2

Qua thực tiễn quyết định áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS trên địa bàn Quân khu 7 giai đoạn từ năm 2016-2020. Từ đặc điểm và tình hình địa bàn, tác giả đã đưa ra những phân tích, đánh giá khái quát nhất dựa trên số liệu tổng quan cũng như các vụ án đã xét xử trên thực tế, từ đó mang đến cho luận văn những nội dung sau:

Thứ nhất, đánh giá những thành tựu đạt được trong quyết định áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS trên địa bàn Quân khu 7.

Các vụ án được điều tra, truy tố, xét xử đúng theo quy định của pháp luật, đảm bảo công bằng, bình đẳng và đảm bảo chính sách nhân đạo của nhà nước cũng như mục đích của hình phạt. Trong những năm vừa qua cũng như trước đây, số lượng án có kháng nghị, kháng cáo thấp. Quyết định hình phạt của Tòa án đối với người phạm tội đều đánh giá khách quan tất cả các căn cứ theo quy định của pháp luật, bao gồm các tình tiết giảm nhẹ TNHS, đảm bảo sự phân hóa mức độ trách nhiệm hình sự và cá thể hóa hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội của bị cáo.

Thứ hai, đưa ra những khó khăn, vướng mắc còn tồn tại trên thực tế địa bàn để phân tích đánh giá và đưa ra quan điểm của tác giả đối với các trường hợp còn có sự khác nhau về nhận thức đối với áp dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS ở các trường hợp vụ thể

Qua phân tích số liệu bản án của Tòa án quân sự khu vực Quân khu 7 trong 05 năm vừa qua nhận thấy các khó khăn, vướng mắc chủ yếu tồn tại ở một số trường hợp có nhận thức và cách hiểu khác nhau về việc áp dụng pháp luật giữa Viện kiểm sát và Tòa án dẫn đến trường hợp Tòa án tự xem xét áp dụng. Hoặc còn tồn tại việc đánh giá mức độ giảm nhẹ của Tòa án và Viện kiểm sát không giống nhau nên mức án có khi cao hoặc thấp hơn mức trung bình. Một số trường hợp có thể xem xét áp dụng tình tiết “phạm tội nhưng chưa gây hậu quả hoặc hậu quả không lớn” hoặc các tình tiết khác nhưng Tòa án dè dặt trong áp dụng vì chưa có hướng dẫn…

Thứ ba, từ thực tiễn địa bàn và kết quả đạt được trên cả mặt thành tựu và những hạn chế còn tồn tại, tác giả đánh giá một số nguyên nhân để làm cơ sở cho nội dung đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quyết định áp dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS.


Chương 3

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 101 trang tài liệu này.

YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP ÁP DỤNG ĐÚNG QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CÁC TÌNH TIẾT GIẢM NHẸ TRÁCH NHIỆM HÌNH SỰ TẠI QUÂN KHU 7 VIỆT NAM


Các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự từ thực tiễn Quân khu 7, Việt Nam - 9

3.1. Yêu cầu trong áp dụng đúng quy định của pháp luật Việt Nam về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Quân khu 7

3.1.1. Yêu cầu trong đảm bảo đúng mục đích của các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

Kết quả của việc xét xử một vụ án hình sự thể hiện toàn bộ ở bản án, quyết định của Tòa án mà cuối cùng là việc xác định bị cáo có phạm tội hay không và cân nhắc hình phạt tương xứng với tính chất nguy hiểm của hành vi, nhân thân người phạm tội, các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Khoản 1 Điều 50 BLHS năm 2015 quy định "Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự"

Các tình tiết giảm nhẹ TNHS hiện diện trong một vụ án là một trong những căn cứ để Tòa án giảm nhẹ trách nhiệm hình sự mà bị cáo phải chịu so với trường hợp thông thường. Tòa án với nhiệm vụ xem xét, đánh giá và ghi nhận những tình tiết đo lường giá trị giảm bớt mức độ nguy hiểm cho xã hội do hành vi phạm tội của bị cáo gây ra, cũng đồng thời thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật và nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta từ xưa đến nay đối với những người phạm tội, khuyến khích họ hối cải, rèn luyện trở thành người có ích cho xã hội. Các tình tiết giảm nhẹ TNHS không làm thay đổi tính chất của tội phạm nhưng làm thay đổi đáng kể mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội trong một cấu thành tội phạm cụ thể.

Mục đích của tình tiết giảm nhẹ TNHS là một phần trong mục đích chung của hình phạt, là kết quả cuối cùng mà mà Nhà nước hướng đến khi buộc người phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự đối với tội phạm đã thực hiện. Hình phạt


không chỉ có vai trò trong trừng trị mà còn nhằm giáo dục, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Dựa trên vai trò và ý nghĩa của tình tiết giảm nhẹ TNHS có thể thấy được tính liên quan giữa mục đích của việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS và mục đích chung của hình phạt. Ngoài là căn cứ để quyết định loại và mức độ hình phạt tương xứng, phản ánh chính sách khoan hồng của nhà nước và tính chất nhân đạo của pháp luật thì việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS cũng là một phần trong thực hiện công tác giáo dục, phòng ngừa riêng đối với người phạm tội. Là phương tiện để phân hóa TNHS và cá thể hóa TNHS trong áp dụng pháp luật và đồng nhất với nguyên tắc công bằng xã hội trong lĩnh vực hình sự.

3.1.2. Yêu cầu trong quyết định áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

Để có quyết định chính xác trong áp dụng các tình tiết giảm nhẹ TNHS, người áp dụng cần phải đảm bảo tuân thủ một số yêu cầu sau:

Thứ nhất, chủ thể áp dụng pháp luật phải có nhận thức và hiểu biết chính xác các quy định về tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định trong Điều 51 BLHS năm 2015. Chủ thể áp dụng pháp luật tác giả muốn nói ở đây chủ yếu là các chủ thể trực tiếp thực hiện các hoạt động trong điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự: các điều tra viên, Kiểm sát viên, Thẩm phán, Hội thẩm quân nhân. Đầu tiên, để đảm bảo áp dụng đúng đủ, chính xác thì người tiến hành tố tụng ngay từ giai đoạn điều tra phải rà soát, xác định người phạm tội có thể thuộc trường hợp được giảm nhẹ TNHS nào để thu thập hồ sơ, yêu cầu cung cấp tài liệu, Kiểm sát viên thực hành quyền công tố cần nghiên cứu hồ sơ, rà soát các quy định của pháp luật, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét áp dụng cho người phạm tội. Tòa án mà cụ thể là các thành viên của Hội đồng xét xử cũng cần có nhận thức đúng trong áp dụng để có quyết định đúng pháp luật.

Thứ hai, cần đặt yêu cầu bảo vệ quyền con người lên đúng vị trí được ghi nhận trong văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất là Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Hiến pháp năm 2013 đặc biệt quan tâm và đã thay đổi “vị trí” của chương “Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân” lên Chương II. Việc áp dụng các quy định của pháp luật nói chung và áp dụng các tình


tiết giảm nhẹ TNHS trong hình sự phải đáp ứng được yêu cầu bảo vệ con người trên quan điểm Nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân và vì dân.

Thứ ba, đảm bảo yêu cầu thực hiện chính sách hình sự nhân đạo và hướng thiện của Đảng và Nhà nước. Trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), có thể thấy tư tưởng nhân đạo được phản ánh rò nét, là tư tưởng bao trùm, xuyên suốt trong quan điểm, đường lối đấu tranh phòng chống tội phạm. Tư tưởng này cũng được xác định là kim chỉ nam trong suốt lịch sử lập pháp qua các thời kỳ khác nhau và trong BLHS năm 2015, tư tưởng nhân đạo một lần nữa được thể hiện rò nét và sâu sắc, thể hiện được bản chất giai cấp của nhà nước ta trong từng chế định pháp luật cụ thể. Chính sách hình sự coi trọng cả trừng trị và giáo dục nhưng đặc biệt đề cao tính “hướng thiện”; tư tưởng nhân đạo được thể hiện trong chế định tội phạm được thể hiện rò nét qua việc phi tội phạm hóa một số hành vi nguy hiểm cho xã hội, các trường hợp loại trừ TNHS. Trong chế định hình phạt, việc quyết định hình phạt còn phải xem xét các tình tiết giảm nhẹ TNHS để làm cơ sở quyết định. Việc quyết định áp dụng các tình tiết giảm nhẹ còn là cơ sở để xem xét thay đổi hình phạt nhẹ hơn, cho hưởng án treo theo hướng giảm bớt hình phạt tù.

Thứ tư, việc áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phải đáp ứng và phù hợp với yêu cầu đấu tranh phòng chống tội phạm trong tình hình mới. Tình hình tội phạm nói chung trong giai đoạn hiện nay ngày càng có tính chất phức tạp hơn, mức độ nguy hiểm cho xã hội và hậu quả gây ra vô cùng nghiêm trọng, đặc biệt là liên quan đến các loại tội phạm về kinh tế, tham nhũng, chức vụ, các tội phạm sử dụng công nghệ cao. Tội phạm có xu hướng tổ chức chặt chẽ và có hệ thống mang tính chất ngày càng chuyên nghiệp theo hướng “mafia” đang là thách thức lớn đối với cả hệ thống pháp luật. Thêm vào đó, việc mở rộng quan hệ quốc tế và phát triển kinh tế vượt bậc trong thời gian vừa qua cũng làm tăng cao tỷ lê tội phạm liên quan đến buôn lậu, gian lận kinh tế. Nhiệm vụ đấu tranh, phòng chống tội phạm ngày càng gay go, phức tạp đòi hỏi phát huy sức mạnh của toàn xã hội. Việc quyết định áp dụng tình tiết giảm nhẹ TNHS cũng phải đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ đấu tranh, phòng chống tội phạm trong tình hình hiện nay.


3.2. Các giải pháp đảm bảo áp dụng đúng quy định của pháp luật Việt Nam về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Quân khu 7

3.2.1. Hoàn thiện pháp luật hình sự về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

Bộ luật hình sự năm 2015 được xây dựng trên cơ sở kế thừa BLHS qua các năm 1985, 1999 và các lần sửa đổi bổ sung cho đến nay. BLHS năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 đến nay đánh giá chung là mang tính hoàn thiện hơn về nội dung và hình thức, tiếp tục thể chế hóa chủ trương cải cách tư pháp của Đảng theo tinh thần nâng cao hiệu quả phòng ngừa và tính hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội; tôn trọng và bảo đảm thực thi quyền con người, quyền công dân [2]. Đặc biệt là BLHS đầu tiên quy định nhiều chế định mới mang tính tiến bộ, bổ sung các nhóm tội phạm, tội phạm mới tạo cơ sở cho việc đấu tranh, phòng chống tội phạm trong tình hình mới.

Riêng đối với quy định về các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự tại Điều 51 BLHS năm 2015 đã được sửa đổi, bổ sung một số nội dung dựa trên sự tiếp thu, hoàn thiện trong quá trình áp dụng trên thực tiễn, cụ thể hóa một số nội dung trong hướng dẫn tại Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán TANDTC vào quy định trong điều luật để thuận lợi và rò ràng hơn trong quá trình áp dụng. Tuy vậy, bản thân tác giả nhận thấy quy định hiện tại vẫn còn một số nội dung mang lại cách hiểu khác nhau giữa những người áp dụng, dẫn đến quyết định áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trên thực tế chưa thống nhất. Một số nội dung cần có sự chỉnh sửa cho phù hợp với thực tiễn và đảm bảo hơn tính công bằng và hợp lý. Tác giả cho rằng cần hoàn thiện pháp luật hình sự về các tình tiết giảm nhẹ TNHS trên một số nội dung sau:

3.2.1.1. Ban hành các văn bản hướng dẫn đối với các tình tiết giảm nhẹ TNHS còn có cách hiểu và nhận thức khác nhau và các tình tiết mới được quy định

Một là, tình tiết “phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng”. Tình tiết này trên thực tế còn có nhận thức khác nhau về như thế nào là “phạm tội lần đầu”. Nghị quyết số 01/2018, hướng dẫn áp dụng Điều 66 và Điều 106 của Bộ luật Hình sự về tha tù trước thời hạn có điều kiện có hướng dẫn tình tiết phạm tội


lần đầu: “Được coi là phạm tội lần đầu và có thể xem xét nếu thuộc một trong các trường hợp sau đây: Trước đó chưa phạm tội lần nào; Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được miễn trách nhiệm hình sự; Trước đó đã thực hiện hành vi phạm tội nhưng được áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục tại trường giáo dưỡng; Trước đó đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích”. Ngược lại với nội dung hướng dẫn tại Công văn số 01/2017/GĐ-TANDTC ngày 07/4/2017 về giải đáp một số vấn đề nghiệp vụ thì “Phạm tội lần đầu là từ trước đến nay chưa phạm tội lần nào. Nếu trước đó đã phạm tội và bị kết án, nhưng đã được xóa án tích hoặc chưa bị kết án, nhưng đã hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa bị kết án, chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự nay bị truy cứu trách nhiệm hình sự trong cùng lần phạm tội sau, thì không được coi là phạm tội lần đầu”.; Có quan điểm ủng hộ quan điểm của Nghị quyết số 01/2018 và phân tích quan điểm này là Công văn giải đáp số 01/2017 là giải đáp tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điểm h Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999. Do trong Bộ luật hình sự này chưa có quy định về các trường hợp không được coi là có án tích nên Công văn giải đáp số 01 không xem xét các trường hợp không được coi là có án tích thuộc trường hợp “phạm tội lần đầu” còn đối với Nghị quyết 01/2018 hướng dẫn BLHS năm 2015 và có hiệu lực cao hơn, khái niệm “phạm tội lần đầu” đồng nhất với quy định tại BLHS hiện hành. Tuy nhiên tác giả nhận định rằng, tình tiết “phạm tội lần đầu” là tình tiết gắn với nhân thân người phạm tội, là sự khoan hồng đặc biệt của pháp luật dành cho người lần đầu lầm lỡ phạm tội. Không thể đánh đồng việc một người phạm tội trước đây đã phạm tội, có tiền án nhưng đã xóa án tích, thuộc trường hợp không có án tích, được miễn trách nhiệm hình sự, hoặc áp dụng biện pháp tư pháp giáo dục. Không thể dựa trên lý do “có lợi cho người phạm tội” mà áp dụng, việc áp dụng như vậy sẽ dẫn tới không công bằng.

Hai là, tình tiết “Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn” còn khó khăn trong xác định trường hợp nào là “chưa gây thiệt hại” hoặc “gây thiệt hại không lớn”


Nội dung “chưa gây thiệt hại” đang có sự mâu thuẫn giữa hai nội dung trong hướng dẫn tại điểm 6.2.1.7 Sổ tay Thẩm phán TANDTC năm 2009 và văn bản số 994/VKSTC-V3 ngày 09/4/2012 của VKSNDTC gửi VKSND tỉnh Thanh Hóa mà tác giả đã phân tích tại phần 2.2.3 của luận văn. Quan điểm của tác giả đồng tình với việc xác định việc “chưa gây thiệt hại” trong tình tiết này là việc tội phạm đã hoàn thành, phân biệt với việc chưa đạt nhưng hậu quả không xảy ra do khách quan (quần chúng ngăn chặn, bị phát hiện …) như hướng dẫn tại Sổ tay thẩm phán.

Tình tiết “thiệt hại không lớn” chưa có hướng dẫn căn cứ để xác định thiệt hại nào là không lớn. Thiệt hại không lớn là so sánh với mong muốn và mục đích của ngời phạm tội hay không lớn so với mức thiệt hại bình thường mà tội phạm tương tự gây ra? Quan điểm của tác giả đồng ý với việc xác định thiệt hại lớn hay không lớn phải dựa vào mức thiệt hại thông thường đối với tội phạm tương tự. mà để xác định mức thông thường này cần có căn cứ, tiêu chí để xác định cụ thể.

Ba là, khoản 1 Điều 51 BLHS năm 2015 có 4 tình tiết giảm nhẹ TNHS được quy định mới tại các điểm đ “Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội”, điểm l “Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra”, điểm p “Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng”, điểm x “Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ” nên cần có văn bản hướng dẫn thực hiện để tránh mắc sai sót hoặc lúng túng khi áp dụng [11].

Bốn là, cần có hướng dẫn về số lượng tình tiết giảm nhẹ được quy định trong cùng một nhóm các tình tiết tại một điểm. Người phạm tội là người có công với cách mạng và cũng là cha của liệt sỹ, nhưng theo quy định chỉ áp dụng tình tiết quy định tại điểm x khoản 1; hoặc người phạm tội vừa có thành tích xuất sắc trong chiến đấu, vừa có thành tích xuất sắc trong công tác, nhưng chỉ áp dụng điểm v khoản 1 của Điều 51 BLHS; Trong khi đó, đối với người phạm tội chỉ thỏa mãn một tình tiết trong nhóm các tình tiết này thì cũng được áp dụng như đối với những người có nhiều tình tiết trong nhóm. Tuy khi có nhiều tình tiết như vậy thì có thể xem xét để giảm nhẹ TNHS ở mức cao hơn cho người phạm tội, nhưng trong một số trường


hợp khác thì dẫn đến không có lợi, như trong trường hợp xem xét cho hưởng án treo hoặc áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt.

3.2.1.2. Quy định tiêu chí xem xét áp dung dụng tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự

Quy định tại khoản 2 Điều 51 BLHS năm 2015 cho phép tùy nghi xem xét áp dụng các tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ. HĐXX có quyền tự xem xét và quyết định áp dụng các tình tiết chưa được quy định hoặc viện dẫn để áp dụng cho bị cáo. Điều này có thể dẫn đến tùy tiện và từ đó đưa ra hình phạt không tương xứng với hành vi phạm tội, không đảm bảo được tính công bằng của pháp luật. Chính vì vậy tác giả thấy rằng rất cần thiết có văn bản quy định tiêu chí, phương pháp để xác định tình tiết nào có thể xem xét là tình tiết giảm nhẹ TNHS dựa trên đặc điểm cần có của một tình tiết giảm nhẹ và các tiêu chí cần thiết phải có của một tình tiết giảm nhẹ TNHS, đó là:

- Tình tiết phải thể hiện được tính chất giảm bớt mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi.

- Tình tiết phải phản ánh được khả năng khả năng cải tạo, giáo dục của người phạm tội đối với hình phạt và các biện pháp giáo dục, cải tạo khác do Nhà nước quy định áp dụng với họ hoặc phản ánh điều kiện hoàn cảnh đặc biệt của người phạm tội đáng được khoan hồng đặc biệt [3, tr.70].

3.2.1.3. Hướng dẫn trường hợp còn khó khăn trong áp dụng quy định tại khoản 3 Điều 51 BLHS năm 2015

Khoản 3 Điều 51 BLHS năm 2015 quy định “Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt”. Một số trường hợp vẫn còn gây khó khăn, lúng túng cho các cơ quan tiến hành tố tụng khi xem xét đánh giá, đó là:

Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra” quy định tại điểm e khoản 1 Điều 51 với trường hợp phạm tội “Giết người trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh” quy định tại Điều 125 BLHS năm 2015 hay tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 24/06/2022