Các Quy Định Về Tiến Hành Phiên Hòa Giải Vụ Việc Dân Sự

Sau khi đã tống đạt thông báo về phiên hòa giải cho tất cả các đương sự, đến đúng thời gian ghi trong thông báo, Thẩm phán và Thư ký phải có mặt tại địa điểm đã ghi trong thông báo để sẵn sàng cho việc hòa giải.

2.2.2. Các quy định về tiến hành phiên hòa giải vụ việc dân sự

Tại phiên hòa giải, Thư ký tiến hành kiểm tra sự có mặt, vắng mặt của các đương sự được triệu tập đến phiên hòa giải, sau đó báo cáo sự có mặt, vắng mặt của các đương sự với Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải.

Sau khi nghe Thư ký báo cáo, Thẩm phán kiểm tra căn cước của những người tham gia phiên hòa giải có mặt. Các trường hợp có mặt, vắng mặt người tham gia phiên hòa giải được xử lý như đã phân tích ở phần trên. Nếu đủ điều kiện về người tham gia tố tụng để tiến hành hòa giải thì Thẩm phán và Thư ký bố trí họ ngồi đúng vị trí của mình. Việc bố trí vị trí ngồi cho các đương sự tham gia hòa giải cũng rất quan trọng, tránh để các đương sự cãi vã, lộn xộn, xô xát trong quá trình hòa giải.

Sau khi đã bố trí sắp xếp vị trí ngồi của những người tham gia phiên hòa giải xong, Thẩm phán tuyên bố bắt đầu phiên hòa giải.

Theo quy định tại Điều 185 của BLTTDS thì: "Khi hòa giải, Thẩm phán phổ biến cho các đương sự biết các quy định của pháp luật liên quan đến việc giải quyết vụ án để các bên liên hệ đến quyền, nghĩa vụ của mình; phân tích hậu quả pháp lý của việc hòa giải thành để họ tự nguyện thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án" [34].

Quy định này mang tính chất rất chung chung. Thực tế thì khi bắt đầu tiến hành hòa giải, Thẩm phán phải phổ biến quyền và nghĩa vụ của các đương sự cũng như những người tham gia tố tụng có mặt, sau đó mới phổ biến cho các đương sự biết các quy định của pháp luật liên quan đến việc giải quyết vụ án. Nhưng nếu chỉ dừng ở đấy thì các đương sự rất khó liên hệ đến quyền, nghĩa vụ của họ nên Thẩm phán cần phải phân tích kỹ các điều luật

liên quan và đối chiếu nó với những nội dung cần giải quyết trong vụ án để các đương sự dễ hiểu và dễ tiếp thu. Sau đó, Thẩm phán phân tích hậu quả pháp lý của việc hoà giải thành rồi đưa ra các phương án hòa giải để các bên tự thương lượng. Vì đây là cuộc thương lượng công khai của các đương sự, Thẩm phán là người thứ ba giúp các đương sự thương lượng nên trong quá trình hòa giải, Thẩm phán có thể đưa ra những ý kiến cần thiết để giúp các đương sự thỏa thuận đúng với tính chất của vụ việc, không trái với quy định của pháp luật và đạo đức xã hội. Tuy nhiên, Thẩm phán chỉ có thể phân tích hậu quả pháp lý của việc hòa giải thành và đưa ra những giải pháp để các bên lựa chọn chứ không thể nói định hướng giải quyết của Tòa án nếu các đương sự không thỏa thuận được với nhau.

Theo hướng dẫn tại mục 5 Phần II của Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của HĐTP TANDTC quy định:

1. Tòa án xem xét các yêu cầu cụ thể của đương sự trong vụ án phải giải quyết để tiến hành hòa giải từng yêu cầu theo thứ tự hợp lý. Ví dụ: Trong vụ án ly hôn, có cả tranh chấp về nuôi con, chia tài sản thì Tòa án cần hòa giải về quan hệ hôn nhân trước, nếu hòa giải đoàn tụ không thành thì tiếp tục tiến hành hòa giải việc nuôi con và sau đó hòa giải việc chia tài sản.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.

2. Khi tiến hành hòa giải, ngoài việc tuân thủ nguyên tắc quy định tại Điều 184 của BLTTDS, tùy theo các quan hệ pháp luật, Thẩm phán phổ biến cho các đương sự biết các quy định của pháp luật có liên quan đến việc giải quyết vụ án để các bên liên hệ đến quyền, nghĩa vụ của mình mà tự nguyện thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án; phân tích hậu quả pháp lý của việc hòa giải thành cho các đương sự biết (như mối quan hệ giữa các đương sự, việc chịu án phí...). Thẩm phán không được nói trước với các đương sự ai sai, ai đúng ở chỗ nào hoặc nếu các đương sự không thỏa thuận được thì hướng xét xử của Tòa án như thế nào...

Thư ký phải có mặt từ khi bắt đầu phiên hòa giải đến khi kết thúc phiên hòa giải. Nhiệm vụ của Thư ký là ghi biên bản hòa giải. Điều 186 của BLTTDS quy định:

Các qui định của Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam 2004 về hòa giải vụ việc dân sự và thực tiễn thực hiện tại Tòa án nhân dân huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội - 9

Việc hòa giải được Thư ký Tòa án ghi vào biên bản. Biên bản hòa giải phải có các nội dung chính sau:

- Ngày, tháng, năm tiến hành phiên hòa giải;

- Địa điểm tiến hành phiên hòa giải;

- Thành phần tham gia phiên hòa giải;

- Ý kiến của các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của các đương sự;

- Những nội dung đã được các đương sự thỏa thuận, không thỏa thuận.

Biên bản hòa giải phải có đầy đủ chữ ký hoặc điểm chỉ của các đương sự có mặt trong phiên hòa giải, chữ ký của Thư ký Tòa án ghi biên bản và của Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải [34].

Đương nhiên việc ghi biên bản là trách nhiệm của Thư ký, song theo quy định trên thì biên bản hòa giải phải có đầy đủ chữ ký hoặc điểm chỉ của các đương sự có mặt trong phiên hòa giải, chữ ký của Thư ký Tòa án ghi biên bản và của Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải, cũng có nghĩa là việc ghi biên bản của Thư ký đã được Thẩm phán và các đương sự giám sát chặt chẽ.

Nếu trong quá trình hòa giải, các đương sự không thống nhất được với nhau về việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án thì sau khi Thẩm phán và các đương sự ký vào biên bản hòa giải là đã kết thúc phiên hòa giải. Thẩm phán tuyên bố buổi hòa giải kết thúc và có thể thông báo cho các đương sự đến tham gia phiên hòa giải tiếp theo hoặc có thể làm thủ tục đưa vụ án ra xét xử.

Nếu trong quá trình hòa giải, các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ nội dung vụ án thì Tòa án phải làm công việc tiếp

theo là lập biên bản hòa giải thành. Theo quy định tại đoạn 2 khoản 2 Điều 186 của BLTTDS thì: "Khi các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án dân sự thì Tòa án lập biên bản hòa giải thành. Biên bản này được gửi ngay cho các đương sự tham gia phiên hòa giải" [34].

Điều luật này đã có điểm mới hơn hẳn so với PLTTGQCVADS. Theo khoản 2 Điều 44 của PLTTGQCVADS thì biên bản hòa giải thành phải được sao gửi cho Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp và các tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung. Quy định đó là không cần thiết, bởi biên bản hòa giải thành là sự tự nguyện thỏa thuận của các đương sự. Pháp luật đã quy định cụ thể những người có đủ điều kiện để tham gia hòa giải. Do vậy, chỉ có các đương sự mới cần thiết được nhận biên bản hòa giải thành để họ có thời gian suy nghĩ thêm về quyết định của mình trong việc giải quyết vụ án.

Điều luật quy định là "phải gửi ngay" cho các đương sự tham gia hòa giải là chưa chính xác, bởi họ đã có mặt ngay ở đó thì Tòa án tiến hành giao ngay cho họ chứ không phải gửi. Hơn nữa, theo mẫu biên bản trong Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của HĐTP TANDTC thì biên bản hòa giải thành phải có chữ ký của các đương sự và Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải nên sau khi đợi lập biên bản để ký xác nhận vào đó thì họ có thể được nhận ngay bản sao. Có chăng việc gửi biên bản hòa giải thành chỉ được thực hiện với các đương sự vắng mặt tại phiên hòa giải.

Trong vụ việc thuận tình ly hôn, mục đích hòa giải ban đầu của Tòa án là hòa giải để các đương sự về đoàn tụ vợ chồng. Do vậy, nếu hòa giải thành thì Tòa án cũng lập biên bản hòa giải thành, nhưng có Thẩm phán thì yêu cầu đương sự rút đơn để ra quyết định đình chỉ việc giải quyết; có Thẩm phán lại chờ đủ thời gian để ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

Theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 và Thông tư số 25/TATC ngày 30/11/1974 của TANDTC hướng dẫn việc hòa giải trong TTDS thì khi giải quyết ly hôn, Tòa án không tiến hành hòa giải trong trường hợp thuận

tình ly hôn vì cho rằng nếu hòa giải trong trường hợp đó là vi phạm quyền tự định đoạt của đương sự. Tuy nhiên, trong thực tiễn không phải mọi trường hợp thuận tình ly hôn đều do "mâu thuẫn đã đến mức trầm trọng, mục đích của hôn nhân không đạt được" mà có thể do mâu thuẫn nhất thời, do tự ái, hiểu lầm, sĩ diện cá nhân... nên việc hòa giải giúp các đương sự hàn gắn cuộc sống vợ chồng là cần thiết, góp phần ổn định cuộc sống xã hội. Do vậy, Luật Hôn nhân và gia đình năm 1986 cũng như Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 đều quy định hòa giải trong giải quyết ly hôn là một thủ tục bắt buộc.

Theo các điều 88, 90 và 91 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì hòa giải là thủ tục bắt buộc khi vợ, chồng hoặc cả vợ chồng cùng có đơn yêu cầu ly hôn. Thủ tục hòa giải trong vụ án ly hôn cũng giống như thủ tục hòa giải trong các vụ việc dân sự khác, chỉ có mục đích ban đầu của hòa giải là khác nhau. Nếu mục đích hòa giải đoàn tụ không đạt được thì Tòa án mới tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết các vấn đề trong vụ án.

Theo hướng dẫn tại Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của HĐTP TANDTC thì biên bản hòa giải thành cần ghi:

Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải, nếu đương sự nào có thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận thì phải lập biên bản gửi cho Tòa án. Trong trường hợp đương sự trực tiếp đến Tòa án xin thay đổi thỏa thuận thì Thẩm phán phải lập biên bản ghi ý kiến thay đổi thỏa thuận của họ. Biên bản ghi ý kiến thay đổi thỏa thuận phải có chữ ký hoặc điểm chỉ của đương sự và lưu vào hồ sơ vụ án. Việc thay đổi thỏa thuận này phải được Tòa án thông báo cho các đương sự khác có liên quan đến thỏa thuận biết [56].

Theo mẫu biên bản hòa giải thành thì đoạn cuối của biên bản có ghi:

Trong thời hạn bảy ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải, nếu đương sự nào có thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận trên đây thì phải làm thành văn bản gửi cho Tòa án. Hết thời hạn này, nếu không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó, thì Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự và quyết định này có hiệu lực pháp luật ngay sau khi ban hành, không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm [56].

Quy định và hướng dẫn về biên bản hòa giải thành này đã quá rò ràng và dễ hiểu nên Thẩm phán không cần phải giải thích gì thêm.

2.2.3. Các quy định về quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự

Khi phiên hòa giải kết thúc, các đương sự đã tìm ra được tiếng nói chung, đã thỏa thuận được với nhau giải pháp để giải quyết vụ việc một cách phù hợp, đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cả đôi bên và đã được ghi lại trong biên bản hòa giải thành. Tuy nhiên, BLTTDS quy định phải giành cho họ một thời gian cần thiết nữa để suy nghĩ, cân nhắc lại tất cả những nội dung mà họ đã thỏa thuận. Hết thời hạn đó, nếu không có đương sự nào thay đổi ý kiến thì Tòa án mới ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

Điều 187 của BLTTDS quy định về việc ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự như sau:

1. Hết thời hạn bảy ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận đó thì Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải hoặc một Thẩm phán được Chánh án Tòa án phân công ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.

Trong thời hạn năm ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự, Tòa án phải gửi quyết định đó cho các đương sự và Viện kiểm sát cùng cấp.

2. Thẩm phán chỉ ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án.

3. Trong trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 184 của Bộ luật này mà các đương sự có mặt thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì thỏa thuận đó chỉ có giá trị đối với những người có mặt và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của các đương sự vắng mặt. Trong trường hợp thỏa thuận của họ ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì thỏa thuận này chỉ có giá trị và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu được đương sự vắng mặt tại phiên hòa giải đồng ý bằng văn bản [34].

Theo quy định này, về thời gian ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự cũng đã được rút ngắn hơn so với quy định trong PLTTGQCVADS. Theo quy định của PLTTGQCVADS thì sau 15 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà không có đương sự nào thay đổi ý kiến, Viện kiểm sát, tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung không có phản đối về sự thỏa thuận đó thì Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự [14]. Như vậy, theo quy định của BLTTDS thì chỉ có đương sự mới có quyền thay đổi ý kiến về sự thỏa thuận của họ, còn theo PLTTGQCVADS thì cả Viện kiểm sát và tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung cũng có quyền phản đối sự thỏa thuận của các đương sự. Đương nhiên, khi phản đối, Viện kiểm sát và tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung phải có lý lẽ giải trình và phải làm theo đúng quy định của pháp luật, nhưng quy định đó là không phù hợp vì sự thoả thuận là do các đương sự tự định đoạt và

Tòa án đã giám sát, định hướng để sự thỏa thuận của họ không vi phạm pháp luật và không trái với đạo đức xã hội. Thời gian bảy ngày để có thể thay đổi ý kiến là phù hợp. Nếu quy định 15 ngày thì cũng bằng thời gian kháng cáo đối với bản án, do đó không có sự khác biệt giữa tự nguyện thỏa thuận giải quyết tranh chấp với bắt buộc phải tuân theo khi Tòa án phán quyết.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 187 của BLTTDS thì Tòa án chỉ có thể ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án. Trường hợp chỉ còn một vấn đề nhỏ trong vụ án mà các đương sự không thỏa thuận được thì Tòa án cũng không được ra quyết định công nhận sự thỏa thuận mà vẫn phải đưa vụ án ra xét xử. Tuy nhiên, khi xét xử, Tòa án chỉ giải quyết những vấn đề mà các đương sự còn tranh chấp, còn những vấn đề mà các đương sự đã thỏa thuận được với nhau thì được ghi nhận trong bản án, Tòa án không giải quyết lại nếu tại phiên tòa họ vẫn giữ nguyên thỏa thuận đó.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 187 của BLTTDS thì trong trường hợp thỏa thuận của các đương sự có mặt ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì thỏa thuận đó chỉ có giá trị và được Thẩm phán ra quyết định công nhận nếu được đương sự vắng mặt tại phiên hòa giải đồng ý bằng văn bản. Tuy vậy, Bộ luật này lại không có quy định về thời hạn đương sự vắng mặt phải có ý kiến bằng văn bản. Đây là một sự thiếu sót gây khó khăn cho Tòa án khi ra quyết định công nhận trong trường hợp có đương sự vắng mặt tại phiên hòa giải.

Điều 188 của BLTTDS quy định về hiệu lực của quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự như sau:

1. Quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự có hiệu lực pháp luật ngay sau khi được ban hành và không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.

Xem tất cả 137 trang.

Ngày đăng: 27/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí