Các Quy Định Về Thành Phần Hòa Giải Vụ Việc Dân Sự

Theo quy định tại Điều 25, 27 và 33 của BLTTDS, TAND cấp huyện có thẩm quyền giải quyết theo thủ tục sơ thẩm: những tranh chấp giữa cá nhân với cá nhân về quốc tịch Việt Nam; tranh chấp về quyền sở hữu tài sản; tranh chấp về hợp đồng dân sự; tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ (trừ những tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ giữa cá nhân, tổ chức với nhau và đều có mục đích lợi nhuận); tranh chấp về thừa kế tài sản; tranh chấp về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng; tranh chấp về quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất theo quy định của pháp luật; tranh chấp liên quan đến hoạt động nghiệp vụ báo chí theo quy định của pháp luật; ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân; tranh chấp về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn; tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con hoặc xác định con cho cha, mẹ; tranh chấp về cấp dưỡng và các tranh chấp khác theo quy định của pháp luật.

Theo quy định tại Điều 26, 28 và 33 của BLTTDS, TAND cấp huyện có thẩm quyền giải quyết: những yêu cầu tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự, hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự hoặc quyết định tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự; yêu cầu thông báo tìm kiếm người vắng mặt tại nơi cư trú và quản lý tài sản của người đó; yêu cầu tuyên bố một người mất tích, hủy bỏ quyết định tuyên bố một người mất tích; yêu cầu tuyên bố một người là đã chết, hủy bỏ quyết định tuyên bố một người là đã chết; yêu cầu hủy bỏ việc kết hôn trái pháp luật; yêu cầu công nhận thuận tình ly hôn, nuôi con, chia tài sản khi ly hôn; yêu cầu công nhận sự thỏa thuận về thay đổi người trực tiếp nuôi con sau ly hôn; yêu cầu hạn chế quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc quyền thăm nom con sau ly hôn; yêu cầu chấm dứt việc nuôi con nuôi và các yêu cầu khác theo quy định của pháp luật [34].

Trường hợp Tòa án thụ lý vụ việc dân sự đã hòa giải, sau đó mới chuyển vụ việc cho Tòa án khác giải quyết thì Tòa án nhận giải quyết vụ việc có thể tiến hành hòa giải hoặc không hòa giải vì pháp luật không có quy định bắt buộc.

2.1.3. Các quy định về thành phần hòa giải vụ việc dân sự

Theo quy định tại Điều 184 của BLTTDS, thành phần phiên hòa giải bao gồm:

- Thẩm phán chủ trì phiên hòa giải;

- Thư ký Tòa án ghi biên bản hòa giải;

- Các đương sự hoặc người đại diện hợp pháp của các đương sự;

- Người phiên dịch, nếu đương sự không biết tiếng Việt.

Trong một vụ án có nhiều đương sự, mà có đương sự vắng mặt trong phiên hòa giải, nhưng các đương sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành hòa giải và việc hòa giải đó không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt thì Thẩm phán tiến hành hòa giải giữa các đương sự có mặt; nếu các đương sự đề nghị hoãn phiên hòa giải để có mặt tất cả các đương sự trong vụ án thì Thẩm phán phải hoãn phiên hòa giải [34].

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.

Rò ràng, PLTTDS quy định trách nhiệm hòa giải của Tòa án nhưng thực chất đó là trách nhiệm của Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc. Trong quá trình giải quyết vụ việc, Thẩm phán được phân công luôn là người chủ động bố trí thời gian và nội dung của các buổi làm việc. Thẩm phán cũng là người trực tiếp chịu trách nhiệm trước cấp trên và Nhà nước về kết quả giải quyết vụ việc được phân công. Do vậy, trong phiên hòa giải chính thức, bắt buộc Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc phải giữ vai trò là người chủ trì. Hơn nữa, chỉ có Thẩm phán được phân công giải quyết vụ việc mới là người nắm rò nhất về toàn bộ những vấn đề cần giải quyết và những vấn đề liên quan trong vụ việc. Do đó, với vai trò là người thứ ba trung gian hòa giải, Thẩm phán phải có mặt mới có thể đưa ra được những đề nghị

hợp lý để các bên đương sự có thể hòa giải được với nhau. Tại khoản 4 Điều 41 của BLTTDS quy định một trong những nhiệm vụ và quyền hạn của Thẩm phán là: "Tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án theo quy định của Bộ luật này; ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự" [34].

Các qui định của Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam 2004 về hòa giải vụ việc dân sự và thực tiễn thực hiện tại Tòa án nhân dân huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội - 7

Sự có mặt của Thư ký Tòa án trong phiên hòa giải là để ghi biên bản hòa giải. Thư ký có trách nhiệm ghi lại toàn bộ nội dung phiên hòa giải, phản ánh trung thực toàn bộ nội dung phiên hòa giải vào biên bản hòa giải. Đồng thời, sự có mặt của Thư ký trong phiên hòa giải cũng là để đảm bảo tính khách quan, trung thực của phiên hòa giải. Nếu để cho Thẩm phán vừa hòa giải vừa ghi biên bản thì rất có thể Thẩm phán sẽ ghi theo ý chí chủ quan của họ. Vì vậy, sự có mặt của Thư ký trong phiên hòa giải cũng là bắt buộc.

Thực tế tại TAND cấp huyện, đôi khi việc hòa giải chỉ do một mình Thư ký tiến hành và sau đó Thẩm phán ký hợp lý hóa hồ sơ. Hoặc ngược lại, có những trường hợp khi hòa giải chỉ có một mình Thẩm phán vừa hòa giải vừa ghi biên bản hòa giải. Những trường hợp như vậy được xác định là đã vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.

Các đương sự là chủ thể chính của phiên hòa giải, sự có mặt của đương sự khi hòa giải là một yêu cầu bắt buộc. Xuất phát từ nguyên tắc tôn trọng quyền tự định đoạt của đương sự, chỉ có đương sự mới có quyền thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án. Một trong những quyền, nghĩa vụ của đương sự được quy định tại điểm e khoản 2 Điều 58 của BLTTDS là: "Tự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án; tham gia hòa giải do Tòa án tiến hành" [34].

Đương sự theo quy định tại Điều 56 của BLTTDS bao gồm: nguyên đơn, bị đơn và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Nguyên đơn trong vụ án dân sự là người tham gia tố tụng khởi kiện vụ án dân sự bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, lợi ích công cộng, lợi ích

của Nhà nước thuộc lĩnh vực phụ trách hoặc được người khác khởi kiện vụ án dân sự yêu cầu Tòa án bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của họ. Nguyên đơn tham gia tố tụng mang tính chủ động hơn các đương sự khác. Hoạt động tố tụng của nguyên đơn có thể dẫn đến việc làm phát sinh, thay đổi hoặc đình chỉ tố tụng.

Bị đơn trong vụ án dân sự là người tham gia tố tụng để trả lời về việc kiện do bị nguyên đơn hoặc người khác khởi kiện theo quy định của pháp luật. Việc tham gia tố tụng của bị đơn mang tính bị động chứ không chủ động như nguyên đơn. Tuy nhiên, hoạt động TTDS của bị đơn cũng có thể làm thay đổi quá trình giải quyết vụ án.

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án dân sự là người tham gia tố tụng vào vụ án dân sự đã phát sinh giữa nguyên đơn và bị đơn để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Việc tham gia tố tụng của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có thể là do họ chủ động hoặc do yêu cầu của đương sự khác hoặc do yêu cầu của Tòa án. Họ không khởi kiện như nguyên đơn và cũng không bị kiện như bị đơn. Họ tham gia tố tụng là do họ có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đến vụ án dân sự. Chẳng hạn, quyền đòi bồi hoàn giữa các đương sự là một trong những căn cứ chủ yếu để người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng như quyền của chủ phương tiện đối với người lái xe trong trường hợp chủ phương tiện bồi thường cho người bị hại do lái xe gây ra...

Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan bao gồm hai loại: Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng không độc lập. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng độc lập có đủ điều kiện pháp lý để khởi kiện vụ án dân sự nhưng do vụ án dân sự đã xuất hiện giữa nguyên đơn và bị đơn nên họ phải tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ, nếu không việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ sau đó sẽ gặp khó khăn

hơn. Yêu cầu của họ có thể chống lại cả nguyên đơn và bị đơn. Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan tham gia tố tụng không độc lập có quyền và lợi ích phụ thuộc vào nguyên đơn hoặc bị đơn nên việc tham gia tố tụng của họ phụ thuộc vào nguyên đơn hoặc bị đơn. Tuy nhiên, khi tham gia tố tụng, họ vẫn có quyền quyết định trong phạm vi quyền lợi của họ.

Trong việc dân sự, đương sự bao gồm: Người yêu cầu, người bị yêu cầu và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan.

Người yêu cầu trong việc dân sự là người tham gia tố tụng đưa ra yêu cầu về giải quyết việc dân sự. Việc tham gia tố tụng của họ cũng chủ động như nguyên đơn. Họ có lợi ích pháp lý độc lập, được đưa ra yêu cầu cho Tòa án giải quyết như nguyên đơn trong vụ án dân sự. Tuy nhiên, yêu cầu của họ chỉ giới hạn trong phạm vi yêu cầu Tòa án công nhận hay không công nhận một sự kiện pháp lý làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt các quyền, nghĩa vụ của họ hoặc công nhận quyền, nghĩa vụ của họ.

Người bị yêu cầu trong việc dân sự là người tham gia tố tụng để trả lời về các yêu cầu của việc dân sự. Việc tham gia tố tụng của họ cũng bị động như bị đơn. Hoạt động tố tụng của họ có tính độc lập và có thể làm thay đổi quá trình giải quyết việc dân sự. Trong một số trường hợp, chỉ có người yêu cầu mà không có người bị yêu cầu.

Người có liên quan trong việc dân sự là người tham gia tố tụng vào việc dân sự để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của họ hoặc trả lời về những vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ của họ. Việc tham gia tố tụng của họ có thể là do họ chủ động hoặc theo yêu cầu của đương sự khác hoặc theo yêu cầu của Tòa án như trong vụ án dân sự.

Hiện nay, trong BLTTDS chưa có định nghĩa về người yêu cầu và người bị yêu cầu trong việc dân sự. Hơn nữa, các quy định của BLTTDS cũng không rò ràng. Theo quy định của các Điều 313, 316... tại Phần thứ năm của

BLTTDS thì người liên quan trong việc dân sự còn bao gồm cả người bị yêu cầu trong việc dân sự [61, tr. 110].

Theo quy định tại Điều 184 của BLTTDS thì thành phần tham gia hòa giải bắt buộc phải có nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tòa án chỉ tiến hành hòa giải vắng mặt một hoặc một số đương sự khi vụ án có nhiều đương sự, các đương sự có mặt vẫn đồng ý tiến hành hòa giải và việc hòa giải đó không ảnh hưởng đến quyền, nghĩa vụ của đương sự vắng mặt. Ngược lại, nếu các đương sự có mặt đề nghị hoãn phiên hòa giải để có mặt tất cả các đương sự trong vụ án thì Thẩm phán phải hoãn phiên hòa giải.

Ngoài ra, pháp luật cũng quy định người đại diện hợp pháp của đương sự có quyền tham gia hòa giải. Người đại diện của đương sự tham gia tố tụng vừa có tác dụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, nhất là trong trường hợp đương sự bị hạn chế hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự, lại vừa có tác dụng làm rò sự thật về vụ việc dân sự.

Người đại diện của đương sự cũng rất đa dạng, bao gồm: người đại diện theo pháp luật, người đại diện do Tòa án chỉ định và người đại diện theo ủy quyền.

Người đại diện theo pháp luật là người đại diện tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho đương sự theo quy định của pháp luật, bao gồm: cha, mẹ của con chưa thành niên; người giám hộ của người được giám hộ; người đứng đầu cơ quan, tổ chức; chủ hộ gia đình và cá nhân, tổ chức khởi kiện để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Tuy nhiên, đối với người không có năng lực hành vi tố tụng, người là đương sự trong cùng một vụ án đối với người được đại diện mà quyền, lợi ích của họ đối lập với quyền, lợi ích của người được đại diện hoặc đang là đại diện cho một đương sự khác mà quyền, lợi ích của đương sự đó đối lập với quyền, lợi ích của người được đại diện thì sẽ không được đại diện cho đương sự. Người

đại diện theo pháp luật của đương sự đương nhiên được tham gia phiên hòa giải do Tòa án tiến hành.

Người đại diện do Tòa án chỉ định là người đại diện tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự theo sự chỉ định của Tòa án. Tuy nhiên, theo Điều 76 của BLTTDS, Tòa án chỉ tiến hành chỉ định người đại diện cho đương sự tham gia tố tụng khi đương sự bị hạn chế năng lực hành vi dân sự mà không có người đại diện hoặc người đại diện theo pháp luật của đương sự không được đại diện theo quy định tại khoản 1 Điều 75 của Bộ luật này.

Người đại diện theo ủy quyền là người đại diện tham gia tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự theo sự ủy quyền của đương sự. Phạm vi tham gia tố tụng của người đại diện theo ủy quyền chỉ bó hẹp trong giới hạn ủy quyền. Pháp luật quy định những người là cán bộ, công chức của ngành Tòa án, Kiểm sát, Công an không được là người đại diện theo ủy quyền của đương sự. Việc ủy quyền trong trường hợp này phải được lập thành văn bản theo đúng quy định của pháp luật.

Vì người đại diện của đương sự là người thay mặt đương sự để giải quyết những vấn đề vướng mắc, tranh chấp trong vụ việc nên khi hòa giải, họ phải là chủ thể chính tham gia phiên hòa giải.

Từ sự phân tích trên, có thể thấy rằng đương sự (hoặc người đại diện của đương sự) là chủ thể chính trong phiên hòa giải nên họ phải có mặt để tham gia phiên hòa giải. Nếu đương sự vắng mặt thì cần phân biệt từng trường hợp cụ thể để giải quyết cho đúng với những quy định của pháp luật.

Trường hợp nguyên đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện và Tòa án ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án theo quy định tại điểm e khoản 1 Điều 192 của BLTTDS.

Trong trường hợp vụ án có nhiều nguyên đơn thì sự vắng mặt của nguyên đơn sẽ được xử lý như sau:

- Đối với vụ án có nhiều nguyên đơn nhưng các nguyên đơn đều có yêu cầu chung đối với bị đơn:

+ Nếu tất cả các nguyên đơn đều được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì Tòa án căn cứ vào điểm e khoản 1 Điều 192 của BLTTDS để ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án.

+ Nếu chỉ có một hoặc một số nguyên đơn vắng mặt thì Tòa án lập biên bản về sự vắng mặt của đương sự không hòa giải được và đưa vụ án ra xét xử.

- Đối với vụ án có nhiều nguyên đơn nhưng yêu cầu của các nguyên đơn là độc lập thì Tòa án sẽ đình chỉ giải quyết yêu cầu của nguyên đơn vắng mặt, còn đối với các nguyên đơn khác thì vẫn hòa giải bình thường.

Theo tác giả, quy định trên là chưa phù hợp, bởi lẽ nếu nguyên đơn vắng mặt nhưng có lý do chính đáng hoặc có văn bản thể hiện họ từ chối hòa giải thì Tòa án phải giải quyết theo trường hợp không tiến hành hòa giải được vì đương sự từ chối hòa giải chứ không thể ra quyết định đình chỉ giải quyết vụ án.

Trường hợp bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì theo khoản 2 Điều 60 của BLTTDS, Tòa án giải quyết vắng mặt bị đơn.

Trường hợp vụ án có nhiều bị đơn thì sự vắng mặt của bị đơn được xử lý như sau:

+ Nếu vụ án có nhiều bị đơn mà tất cả các bị đơn đều vắng mặt hoặc một số bị đơn vắng mặt thì Tòa án lập biên bản xác nhận sự vắng mặt đó rồi đưa vụ án ra xét xử. Nhưng nếu các bị đơn có mặt chấp nhận thi hành toàn bộ nghĩa vụ đối với nguyên đơn thì Tòa án vẫn có thể tiến hành hòa giải giữa nguyên đơn và các bị đơn có mặt. Ví dụ: Bà Nguyễn Thị Bé kiện đòi nợ với

Xem tất cả 137 trang.

Ngày đăng: 27/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí