gia đình, kinh doanh thương mại, lao động; trình tự và thủ tục giải quyết vụ việc dân sự; nhiệm vụ, quyền hạn và trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng; quyền và nghĩa vụ của người tham gia tố tụng... bảo đảm cho việc giải quyết các vụ việc dân sự được nhanh chóng, chính xác, công minh và đúng pháp luật. Ngoài việc kế thừa những điểm hợp lý của các quy định trong các văn bản luật trước đây về hòa giải, BLTTDS và các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật này còn bổ sung nhiều quy định mới như quy định về thành phần hòa giải, việc thông báo hòa giải, trình tự thủ tục hòa giải v.v... Các quy định của BLTTDS và các văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật này về hòa giải vụ việc dân sự là một bộ phận chủ yếu của chế định hòa giải trong PLTTDS hiện hành. Việc ban hành BLTTDS đánh dấu bước phát triển quan trọng của hệ thống pháp luật Việt Nam nói chung và PLTTDS nói riêng.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Xã hội loài người là tổng hòa các mối quan hệ đa dạng và phức tạp. Trong bất kỳ xã hội nào, các mâu thuẫn và tranh chấp giữa con người với nhau cũng là một hiện tượng phổ biến, khách quan. Để giữ vững sự ổn định trong xã hội, một trong những biện pháp giải quyết tranh chấp được sử dụng sớm nhất và thường xuyên nhất, đó là hòa giải.
Chế định hòa giải là một chế định quan trọng của PLTTDS Việt Nam. Chế định này được hình thành một cách khách quan trước yêu cầu của đời sống kinh tế, xã hội và chịu sự tác động sâu sắc của các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội và tập quán trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử. Theo thời gian, chế định hòa giải đã khẳng định được vai trò của nó trong quá trình Tòa án giải quyết các vụ việc dân sự.
Chế định hòa giải trong PLTTDS Việt Nam đã xác định trách nhiệm của Tòa án trong quá trình hòa giải vụ việc dân sự là giúp các đương sự thỏa
thuận với nhau về giải quyết vụ việc; đồng thời tạo cơ chế bảo đảm cho các đương sự thực hiện quyền tự định đoạt của mình trong quá trình hòa giải.
Từ khi giành được chính quyền đến nay, Nhà nước ta luôn chú trọng đến việc ban hành các văn bản quy định về hòa giải trong TTDS. Vì vậy, đã giúp cho Tòa án có cơ sở pháp lý để hòa giải thành, giải quyết dứt điểm số lượng lớn các tranh chấp dân sự, góp phần xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc, tạo nên nội lực phát triển kinh tế, xã hội của đất nước. Việc Nhà nước ban hành BLTTDS đánh dấu sự phát triển mới của PLTTDS Việt Nam. Các quy định về hòa giải trong BLTTDS là một bộ phận chủ yếu của chế định hòa giải vụ việc dân sự trong PLTTDS hiện hành. Tuy nhiên, sự phát triển của nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay đòi hỏi phải hoàn thiện hơn nữa chế định hòa giải vụ việc dân sự để phục vụ tốt hơn cho công cuộc đổi mới đất nước.
Chương 2
Có thể bạn quan tâm!
- Cơ Sở Của Chế Định Hòa Giải Vụ Việc Dân Sự Trong Tố Tụng Dân Sự Việt Nam
- Vai Trò Của Chế Định Hòa Giải Trong Pháp Luật Tố Tụng Dân Sự Việt Nam
- Giai Đoạn Từ Năm 1974 Đến Năm 1989
- Các Quy Định Về Thành Phần Hòa Giải Vụ Việc Dân Sự
- Các Quy Định Về Nguyên Tắc Hòa Giải Vụ Việc Dân Sự
- Các Quy Định Về Tiến Hành Phiên Hòa Giải Vụ Việc Dân Sự
Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.
NỘI DUNG CÁC QUY ĐỊNH
CỦA BỘ LUẬT TỐ TỤNG DÂN SỰ VIỆT NAM 2004 VỀ HÒA GIẢI VỤ VIỆC DÂN SỰ
Để giải quyết vụ việc dân sự, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, Tòa án không chỉ xét xử mà còn hòa giải vụ việc dân sự. Tại Điều 5 của BLTTDS quy định: "Trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự, các đương sự có quyền chấm dứt, thay đổi các yêu cầu của mình hoặc thỏa thuận với nhau một cách tự nguyện, không trái pháp luật và đạo đức xã hội" [34]. Điều đó có nghĩa là các đương sự hoàn toàn có quyền tự mình quyết định việc có tham gia tố tụng hay không. Khi tham gia tố tụng, các đương sự có quyền tự mình thỏa thuận với nhau về các vấn đề tranh chấp, miễn sao sự thỏa thuận đó không trái với pháp luật và đạo đức xã hội. Tuy nhiên, BLTTDS cũng quy định trách nhiệm của Tòa án đối với việc hòa giải. Tại Điều 10 quy định: "Tòa án có trách nhiệm tiến hành hòa giải và tạo điều kiện thuận lợi để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ việc dân sự theo quy định của Bộ luật này" [34]. Theo quy định này thì hòa giải là thủ tục bắt buộc Tòa án phải tiến hành khi giải quyết vụ việc dân sự, nếu Tòa án bỏ qua thủ tục này mà đưa vụ án ra xét xử thì Tòa án đã vi phạm thủ tục tố tụng. Tuy nhiên, việc hòa giải như thế nào, Tòa án được hòa giải đến đâu và Tòa án phải làm gì khi tiến hành hòa giải... đều phải căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành. Các quy định của BLTTDS về hòa giải vụ việc dân sự là một bộ phận quan trọng của chế định hòa giải trong PLTTDS Việt Nam. Những vấn đề liên quan đến hòa giải vụ việc dân sự đều được quy định trong Bộ luật này. Đối với các việc dân sự, BLTTDS không có quy định cụ thể về thủ tục hòa giải việc dân sự. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 311 của BLTTDS thì Tòa án áp dụng những quy định của chương XX và những quy định khác của Bộ luật không
trái với quy định của chương XX để giải quyết những việc dân sự. Do vậy, Tòa án áp dụng các quy định của BLTTDS về thủ tục hòa giải vụ án dân sự để hòa giải việc dân sự.
2.1. CÁC QUY ĐỊNH CHUNG VỀ HÒA GIẢI VỤ VIỆC DÂN SỰ
2.1.1. Các quy định về phạm vi hòa giải vụ việc dân sự
Tại khoản 1 Điều 180 của BLTTDS quy định: "Trong thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án, Tòa án tiến hành hòa giải để các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án, trừ những vụ án không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được quy định tại Điều 181 và 182 của Bộ luật này" [34]. Do vậy, hòa giải được tiến hành đối với việc giải quyết hầu hết các vụ án dân sự, trừ những trường hợp không hòa giải được hoặc pháp luật quy định không được hòa giải.
Theo quy định tại Điều 181 của BLTTDS thì những vụ án không được hòa giải bao gồm:
Một là, yêu cầu đòi bồi thường gây thiệt hại đến tài sản của Nhà
nước.
Đối với yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại đến tài sản của Nhà nước,
Tòa án không được hòa giải vì tài sản của Nhà nước thuộc sở hữu toàn dân. Mọi hành vi gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước đều là trái pháp luật và phải bồi thường. Người gây thiệt hại đến tài sản của Nhà nước không có quyền điều đình và thương lượng thỏa thuận với Nhà nước về trách nhiệm và mức bồi thường. Quy định này nhằm đảm bảo nguyên tắc bất khả xâm phạm đối với tài sản của Nhà nước, đồng thời phòng ngừa những trường hợp thỏa thuận gây hại đến Nhà nước. Trong thực tiễn đã từng xảy ra trường hợp thỏa thuận gây hại cho Nhà nước. Chẳng hạn, theo Bản án số 05/2007/DSST ngày 23/4/2007 của TAND huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội đã bác bỏ thỏa thuận giữa bà Nguyễn Thị Thắm với Công ty thuốc thú y Trung ương đóng
trên địa bàn huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội do ông Hoàng Văn Hà làm giám đốc. Nội dung vụ kiện: Bà Nguyễn Thị Thắm là thủ quỹ của Công ty thuốc thú y Trung ương, đã lấy 50.000.000đ tiền công quỹ để sử dụng vào việc riêng. Khi bị phát hiện, Công ty đã gửi đơn đến TAND huyện Hoài Đức yêu cầu bà Thắm hoàn lại số tiền trên cho Công ty. Trong quá trình giải quyết vụ án, bà Thắm và ông Hoàng Văn Hà (Giám đốc Công ty) đã thỏa thuận giảm cho bà Thắm 5.000.000đ, bà Thắm chỉ phải hoàn lại Công ty 45.000.000đ. Hai bên đề nghị Tòa án công nhận sự thỏa thuận này nhưng TAND huyện Hoài Đức đã bác bỏ đề nghị đó của các đương sự và đưa vụ án ra xét xử, buộc bà Thắm phải bồi thường trả Công ty toàn bộ 50.000.000đ [45].
Hai là, những vụ án phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội.
Đối với những vụ án phát sinh từ giao dịch trái pháp luật hoặc trái đạo đức xã hội, Tòa án cũng không hòa giải vì các giao dịch đó vốn đã vô hiệu ngay từ khi giao dịch. Giao dịch trái pháp luật là vi phạm pháp luật. Các bên tham gia giao dịch không thể thỏa thuận để giải quyết hành vi vi phạm pháp luật của mình. Ví dụ: trường hợp kiện đòi tiền vay là đô la Mỹ (USD), kiện đòi tiền nợ do sinh con thuê... Tuy nhiên, trong hoàn cảnh hiện nay, nhiều giao dịch dân sự trái pháp luật có những nguyên nhân khách quan nên khi giải quyết vụ án, Tòa án phải xem xét thận trọng để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của đương sự. Khi giải quyết loại vụ án này, Tòa án tuyên bố giao dịch vô hiệu và giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu theo quy định của pháp luật. Theo Mục 2 Phần II Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 của HĐTP TANDTC thì Tòa án không hòa giải để các bên tiếp tục thực hiện giao dịch nhưng có thể hòa giải để các bên giải quyết hậu quả của giao dịch dân sự vô hiệu. Chẳng hạn, trong vụ tranh chấp hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà Nguyễn Thị Lụa với bà Hà Thị Ngân do
TAND huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội giải quyết. Ngày 03/5/2008, bà Nguyễn Thị Lụa ký hợp đồng nhận chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất tại khu 7, thị trấn Trạm Trôi, huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội của bà Hà Thị Ngân. Trước khi hai bên ký kết hợp đồng, bà Ngân đã được thông báo là thửa đất đó nằm trong quy hoạch mở rộng đường Quốc lộ 32, đã được cơ quan nhà nước kiểm đếm và không được chuyển nhượng. Tuy vậy, bà Ngân đã giấu kín thông tin này không cho bà Lụa biết. Bà Lụa là một Việt Kiều mới về nước nên không biết gì về thông tin đó. Hai bên đã ký kết hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nhưng chưa làm thủ tục qua các cấp có thẩm quyền. Bà Lụa đã chuyển đủ số tiền theo thỏa thuận cho bà Ngân. Sau khi giao đủ tiền vài ngày, bà Lụa đã biết được thông tin về thửa đất nên đã gửi đơn đến Tòa án yêu cầu hủy hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bà và bà Ngân. Trong vụ án này, đương nhiên giao dịch trên vô hiệu. Song vấn đề phức tạp ở đây là giải quyết hậu quả của giao dịch vô hiệu đó vì từ khi bà Lụa giao tiền cho bà Ngân cho đến khi Tòa án đưa vụ án ra xét xử, giá đất khu vực đã tăng lên gấp 5 lần. Để giải quyết được tranh chấp, Tòa án phải cân nhắc rất thận trọng khi quyết định thiệt hại và tính lỗi trong trường hợp này. Theo hướng dẫn tại Mục 2 Phần II Nghị quyết số 02/2006/NQ- HĐTP ngày 12/5/2006 của HĐTP TANDTC thì Tòa án có thể hòa giải để các bên giải quyết hậu quả của giao dịch này.
Ngoài những trường hợp không được hòa giải, BLTTDS còn quy định những trường hợp không tiến hành hòa giải được. Theo quy định tại Điều 182 của BLTTDS, những vụ án dân sự không tiến hành hòa giải được bao gồm:
Thứ nhất, bị đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn cố tình vắng mặt.
Việc pháp luật quy định Tòa án phải tiến hành hòa giải trong quá trình giải quyết vụ án dân sự là nhằm tạo điều kiện cho các đương sự có cơ hội gặp gỡ, tìm hiểu để từ đó tự thương lượng thỏa thuận với nhau về mọi vấn đề cần giải quyết trong vụ án. Nguyên đơn là người chủ động yêu cầu Tòa án giải quyết
vụ án nên theo quy định tại Điều 59 của BLTTDS thì "nguyên đơn đã được Tòa án triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt thì bị coi là từ bỏ việc khởi kiện" [34] và Tòa án sẽ ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án. Còn bị đơn trong vụ án dân sự là người bị kiện, bị nguyên đơn cho rằng đã xâm phạm đến quyền và lợi ích của họ và bị buộc phải tham gia tố tụng. Tòa án triệu tập bị đơn đến tham gia phiên hòa giải là muốn hai bên đương sự tự nguyện thỏa thuận với nhau. Việc bị đơn đã được triệu tập hợp lệ đến tham gia phiên hòa giải mà vắng mặt chứng tỏ họ đã từ bỏ việc tham gia hòa giải. Tòa án không có quyền ép buộc bị đơn phải tham gia hòa giải, song nếu bị đơn vắng mặt thì nguyên đơn không còn đối tác để hòa giải nên vụ án sẽ không thể hòa giải được.
Thứ hai, đương sự không thể tham gia hòa giải được vì có lý do chính
đáng.
Trường hợp này được áp dụng đối với cả hai bên đương sự. Khi các
đương sự có lý do chính đáng để từ chối tham gia phiên hòa giải thì Tòa án cũng không thể tiến hành hòa giải được. Chẳng hạn, đến ngày tham gia phiên hòa giải mà đương sự bị bệnh nặng phải nằm bệnh viện điều trị hoặc trên đường đương sự đến Tòa án để tham gia phiên hòa giải không may bị thương tích nặng do tai nạn giao thông phải vào bệnh viện cấp cứu thì Tòa án phải hoãn phiên hòa giải. Đương nhiên những trường hợp này đều phải có giấy tờ hợp lệ của bệnh viện.
Thứ ba, đương sự là vợ hoặc chồng trong vụ án ly hôn là người mất năng lực hành vi dân sự.
Theo quy định tại Điều 22 của Bộ luật Dân sự năm 2005 thì người bị coi là mất năng lực hành vi dân sự có nghĩa là người đó đã rơi vào tình trạng không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình do bị mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác [35]. Trong vụ án ly hôn, vợ và chồng là chủ thể chính. Nếu một trong hai bên đã rơi vào tình trạng mất năng lực hành vi dân sự thì Tòa án không thể hòa giải được. Nếu Tòa án cố tình hòa giải thì kết quả
hòa giải đó cũng không được pháp luật thừa nhận. Bởi vì, khi một người đã không thể nhận thức và làm chủ được hành vi của mình thì sự thỏa thuận của họ không phải là ý chí thực của họ.
Đối với những vụ án Tòa án không tiến hành hòa giải được trong quá trình giải quyết vụ án thì không thể có quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự. Tuy nhiên, trong những trường hợp các đương sự tự hòa giải hoặc rút đơn khởi kiện mà qua việc kiểm tra thấy hoàn toàn tự nguyện và phù hợp với những quy định của pháp luật thì Tòa án có thể ra quyết định đình chỉ việc giải quyết vụ án. Tất cả các trường hợp không hòa giải được, Tòa án phải lập biên bản không hòa giải được, nêu rò lý do để lưu vào hồ sơ vụ án làm căn cứ tiếp tục giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.
Đối với các việc dân sự, theo quy định tại Điều 311 của BLTTDS thì Tòa án áp dụng những quy định của chương XX và những quy định khác của Bộ luật không trái với quy định của chương XX để giải quyết những việc dân sự. Do vậy, Tòa án tiến hành hòa giải đối với tất cả các việc dân sự, trừ những việc pháp luật quy định không được hòa giải hoặc không tiến hành hòa giải được như việc các bên đương sự yêu cầu hủy bỏ giao dịch trái pháp luật; yêu cầu hủy việc kết hôn trái pháp luật v.v...
Trên đây là phạm vi các vụ việc Tòa án phải tiến hành hòa giải. Còn trong từng vụ việc cụ thể, phạm vi hòa giải lại khác nhau nhưng không vượt ra ngoài những yêu cầu của đương sự.
2.1.2. Các quy định về thẩm quyền hòa giải vụ việc dân sự
Về nguyên tắc, việc hòa giải vụ việc dân sự được thực hiện trước khi mở phiên tòa, phiên họp giải quyết vụ việc dân sự theo thủ tục sơ thẩm. Vì vậy, Tòa án thụ lý giải quyết vụ việc dân sự theo thủ tục sơ thẩm sẽ hòa giải trước khi đưa vụ việc ra giải quyết tại phiên tòa, phiên họp, trừ những vụ việc pháp luật quy định không được hòa giải hoặc những vụ việc không hòa giải được.