cấp nào có quyền hủy bỏ biên bản hòa giải thành của Tòa án cấp huyện... nên việc thực hiện không tránh khỏi những vướng mắc.
1.2.3. Giai đoạn từ năm 1974 đến năm 1989
Để khắc phục những tồn tại của chế định hòa giải trong hệ thống pháp luật, nhằm đáp ứng nhu cầu giải quyết các vụ án dân sự, ngày 30/11/1974 TANDTC đã ban hành Thông tư số 25/TATC hướng dẫn việc hòa giải trong TTDS [47]. Đây là văn bản pháp luật quy định khá đầy đủ, cụ thể các vấn đề về hòa giải trong tố tụng dân sự.
- Về thẩm quyền hòa giải, Thông tư này quy định hầu hết các tranh chấp dân sự đều được hòa giải tại cấp huyện, trừ một số trường hợp cụ thể do các văn bản pháp luật quy định thuộc thẩm quyền của TAND cấp tỉnh và những trường hợp không được hòa giải như việc ly hôn khi bị đơn là người mất trí, việc kiện về hôn nhân và gia đình xét thấy phải xử lý bằng biện pháp tiêu hôn, các việc tranh tranh chấp về thân phận con người như sinh đẻ, chết, kết hôn, truy nhận cha cho con ngoài giá thú..., các việc thuận tình ly hôn, việc kiện dân sự mà nội dung là giao dịch bất hợp pháp, việc kiện dân sự đòi hỏi bồi thường thiệt hại đối với hành vi cố ý xâm phạm tài sản xã hội chủ nghĩa, việc kiện dân sự do Viện kiểm sát nhân dân khởi tố...
- Yêu cầu về hòa giải, thông tư quy định rò hòa giải phải có sự tự nguyện thực sự của đương sự; nội dung thỏa thuận phải đúng với chính sách, pháp luật; hòa giải phải vừa tích cực, vừa kiên trì để có thể giải quyết nhanh chóng vụ kiện, nhưng nếu có khả năng hòa giải thành thì có thể hòa giải nhiều lần.
- Về thủ tục và phương pháp hòa giải, Thông tư quy định rò khi hòa giải, bắt buộc các đương sự phải có mặt. Các đương sự có quyền ủy nhiệm cho người đại diện hợp pháp của họ, trừ nguyên đơn và bị đơn trong vụ án ly hôn. Dự sự cũng được triệu tập đến phiên hòa giải nếu việc hòa giải có liên quan đến quyền và lợi ích của họ. Tư cách của những người được triệu tập
đến phiên hòa giải phải được Tòa án xác định trước khi tiến hành hòa giải. Nếu trong những người được Tòa án triệu tập đến phiên hòa giải mà có người vắng mặt thì Tòa án phải hoãn phiên hòa giải. Nếu đã triệu tập lại mà vẫn có người vắng mặt thì Tòa án vẫn tiến hành hòa giải hoặc quyết định đưa vụ án ra xét xử. Trường hợp không thể tiến hành hòa giải được do bị đơn cố tình giấu địa chỉ hoặc đang bị tạm giam, tạm giữ thì Thẩm phán lập biên bản ghi rò lý do không hòa giải được rồi tiếp tục điều tra, xác minh và quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Trước khi hòa giải, Thẩm phán phải điều tra, nắm vững nội dung vụ kiện, các yêu cầu và chứng cứ của đương sự. Cần tránh lối hòa giải "cầu may"; Cần giải thích pháp luật có liên quan đến vụ kiện để các đương sự hiểu rò quyền lợi của họ; Cần giải quyết các mắc mứu về tâm tư, tình cảm của đương sự; Cần phải dựa vào đoàn thể quần chúng để tiến hành hòa giải và cần phải có thái độ khách quan, không thiên vị bên nào khi hòa giải.
Trường hợp hòa giải thành thì Thẩm phán lập biên bản hòa giải thành. Tuy nhiên, biên bản hòa giải thành chỉ có tác dụng xác nhận sự việc chứ chưa có giá trị thi hành. Tòa án cần ra một quyết định công nhận việc hòa giải thành thì các thỏa thuận mới có giá trị chấp hành. Nếu hòa giải không thành thì Thẩm phán lập biên bản hòa giải không thành tiếp tục điều tra, xác minh và quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Tại phiên tòa sơ thẩm, phúc thẩm, nếu các bên thỏa thuận, hòa giải được với nhau thì Thư ký ghi vào biên bản phiên tòa, Thẩm phán không cần lập biên bản hòa giải thành. Trong trường hợp này, Tòa án không ra bản án mà ra quyết định công nhận việc hòa giải thành.
Có thể bạn quan tâm!
- Các qui định của Bộ luật Tố tụng dân sự Việt Nam 2004 về hòa giải vụ việc dân sự và thực tiễn thực hiện tại Tòa án nhân dân huyện Hoài Đức, thành phố Hà Nội - 2
- Cơ Sở Của Chế Định Hòa Giải Vụ Việc Dân Sự Trong Tố Tụng Dân Sự Việt Nam
- Vai Trò Của Chế Định Hòa Giải Trong Pháp Luật Tố Tụng Dân Sự Việt Nam
- Các Quy Định Chung Về Hòa Giải Vụ Việc Dân Sự
- Các Quy Định Về Thành Phần Hòa Giải Vụ Việc Dân Sự
- Các Quy Định Về Nguyên Tắc Hòa Giải Vụ Việc Dân Sự
Xem toàn bộ 137 trang tài liệu này.
- Về hiệu lực của các quyết định công nhận hòa giải thành, thông tư quy định các quyết định công nhận việc hòa giải thành có hiệu lực như bản án. Các đương sự, Viện kiểm sát có quyền kháng cáo, kháng nghị đối với quyết định công nhận việc hòa giải thành của Tòa án cấp sơ thẩm trong thời
gian quy định như đối với bản án. Các quyết định sơ thẩm có hiệu lực và quyết định công nhận việc hòa giải thành của cấp phúc thẩm được thi hành như bản án. Nếu quyết định công nhận việc hòa giải thành đã có hiệu lực pháp luật nhưng phát hiện có sai lầm thì vụ kiện sẽ được xét xử lại theo trình tự giám đốc thẩm. Trường hợp người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan thấy việc thỏa thuận của nguyên đơn, bị đơn có ảnh hưởng đến quyền lợi của mình thì người đó có quyền chống quyết định. Đối với quyết định chưa có hiệu lực pháp luật mà chỉ có mình người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chống quyết định thì trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày ra quyết định sơ thẩm, Tòa án sẽ thụ lý đơn và giải quyết các khoản mà người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan chống lại.
Sau khi giải phóng miền Nam, đất nước ta hoàn toàn thống nhất, cả nước cùng bắt tay xây dựng Chủ nghĩa xã hội. Hiến pháp năm 1980 ra đời đã tạo cơ sở pháp lý cho việc sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu xây dựng đất nước trong tình hình mới. Ngày 24/7/1981, TANDTC đã ban hành Thông tư số 81/TATC hướng dẫn giải quyết tranh chấp về thừa kế, quy định: "Cần kiên trì hòa giải nhằm góp phần củng cố và phát triển tình đoàn kết, thương yêu trong nội bộ, gia đình, bảo đảm sản xuất và công tác... và phải quán triệt phương châm hòa giải, khuyến khích sự tương trợ lẫn nhau giữa các đương sự, bảo đảm cho việc xét xử có lý, có tình và tạo thuận lợi cho việc thi hành án" [48].
Năm 1986, Nhà nước ta thực hiện chủ trương đổi mới phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới, hệ thống pháp luật nói chung và chế định hòa giải nói riêng đã bộc lộ rất nhiều hạn chế, không phát huy được hiệu quả khi áp dụng.
Ngày 12/7/1989, TANDTC đã ban hành Công văn số 125/NCPL, hướng dẫn về thủ tục hòa giải. Nội dung của Công văn đã hướng dẫn khá chi tiết, cụ
thể về trình tự, thủ tục hòa giải các vụ án dân sự [49]. Tuy nhiên, đây vẫn chỉ là văn bản hướng dẫn mang tính chất nội bộ của ngành và vẫn chưa khắc phục được những hạn chế của chế định hòa giải.
1.2.4. Giai đoạn từ năm 1989 đến năm 2004
Để nâng cao hiệu quả giải quyết các vụ án dân sự, góp phần tích cực vào công cuộc đổi mới của đất nước, ngày 29/12/1989 Nhà nước đã ban hành Pháp lệnh Thủ tục giải quyết các vụ án dân sự. Pháp lệnh này quy định cụ thể thủ tục giải quyết vụ án dân sự, trong đó hòa giải được ghi nhận là một nguyên tắc, một thủ tục mà Tòa án phải tiến hành trong quá trình giải quyết vụ án. Đây là một bước phát triển mới của PLTTDS nói chung và của chế định về hòa giải nói riêng.
Sau khi PLTTGQCVADS có hiệu lực thi hành, TANDTC đã ban hành rất nhiều các văn bản hướng dẫn như: Nghị quyết số 03/HĐTP ngày 19/10/1990 của HĐTP TANDTC hướng dẫn áp dụng một số quy định của PLTTGQCVADS, trong đó đã hướng dẫn về thủ tục, phạm vi của hòa giải; Công văn số 130/NCPL ngày 16/12/1991 của TANDTC, hướng dẫn giải quyết các vụ án ly hôn với một bên đương sự ở nước ngoài. Trong Công văn có quy định: "Khi có kết quả ủy thác, Tòa án đưa vụ án ra xét xử mà không cần hòa giải vì có một bên đương sự đang ở nước ngoài nên không thể hòa giải được" [50]; Công văn số 43/KHXX ngày 21/4/1998 của TANDTC, trả lời về hiệu lực của quyết định công nhận sự thỏa thuận giữa các đương sự tại phiên tòa sơ thẩm và hướng dẫn áp dụng khoản 1 Điều 52 của PLTTGQCVADS; Công văn số 81/TATC ngày 10/6/2002 của TANDTC hướng dẫn về công tác xét xử, trong đó có hướng dẫn về thủ tục hòa giải trước khi mở phiên tòa phúc thẩm và hòa giải tại phiên tòa phúc thẩm... Ngoài ra, Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 cũng quy định Tòa án phải tiến hành hòa giải các trường hợp ly hôn trước khi mở phiên tòa sơ thẩm; Bộ luật dân sự năm 1995 cũng có những quy định liên quan đến hòa giải.
PLTTGQCVADS và các văn bản pháp luật nêu trên đã quy định cụ thể về hòa giải như sau:
- Về nguyên tắc hòa giải, Pháp lệnh quy định hòa giải là một nguyên tắc, thủ tục giải quyết vụ án dân sự. Theo Điều 5 của PLTTGQCVADS: "Trong quá trình giải quyết các vụ án dân sự, Tòa án tiến hành hòa giải để giúp các đương sự thỏa thuận được với nhau về giải quyết vụ án" [14]. Theo Nghị quyết số 03/HĐTP ngày 19/10/1990 của HĐTP TANDTC thì trước khi mở phiên tòa sơ thẩm, Tòa án có trách nhiệm hòa giải để các đương sự thỏa thuận giải quyết các vấn đề của vụ án dân sự, trừ những trường hợp không hòa giải được hoặc pháp luật quy định không được hòa giải. Nếu không hòa giải mà đã đưa vụ án ra xét xử thì bị coi là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng.
Theo quy định tại Điều 88, Điều 90, Điều 91 của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 thì hòa giải là một thủ tục bắt buộc trong quá trình giải quyết các vụ án ly hôn. Trường hợp cả hai vợ chồng có đơn thuận tình ly hôn thì Tòa án cũng phải tiến hành hòa giải để hai bên đương sự về đoàn tụ với nhau. Nếu họ vẫn kiên quyết xin ly hôn thì Tòa án lập biên bản hòa giải không thành và đưa vụ án ra xét xử. Việc hòa giải được thực hiện trên cơ sở sự tự nguyện của các đương sự. Kết quả của việc hòa giải thành chỉ được công nhận và phát huy tác dụng khi thỏa thuận của các đương sự xuất phát từ chính nguyện vọng của họ. Tuy nhiên, nội dung thỏa thuận của các đương sự không được trái với quy định của pháp luật và đạo đức xã hội.
- Về thẩm quyền hòa giải của TAND các cấp, theo Điều 5 PLTTGQCVADS và hướng dẫn của Nghị quyết số 03/HĐTP ngày 19/10/1990 của Hội đồng thẩm phán (HĐTP) TANDTC thì Tòa án phải hòa giải vụ án trước khi xét xử. Chỉ khi không hòa giải được hoặc hòa giải không thành mới đưa ra xét xử, trừ những trường hợp không phải hòa giải. Như vậy, thẩm quyền hòa giải thuộc về TAND thụ lý giải quyết vụ án. Tòa án nào đã thụ lý giải quyết vụ án thì Tòa án đó có thẩm quyền hòa giải vụ án.
Những trường hợp không được hòa giải bao gồm: những vụ án do Viện kiểm sát khởi tố, tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung; hủy bỏ việc kết hôn trái pháp luật; đòi bồi thường thiệt hại đến tài sản của Nhà nước; những việc phát sinh từ giao dịch trái pháp luật; những việc khiếu nại cơ quan hộ tịch về việc từ chối đăng ký hoặc không chấp nhận sửa đổi những điều ghi trong giấy tờ hộ tịch, việc khiếu nại về danh sách cử tri.
Những trường hợp không hòa giải được bao gồm: trường hợp bị đơn được triệu tập hợp lệ đến lần thứ hai mà vẫn vắng mặt không có lý do chính đáng; trường hợp một bên đương sự đang ở nước ngoài; trường hợp một bên bị giam giữ hoặc do những trở ngại khách quan khác như bị ốm đau, tai nạn không thể có mặt khi hòa giải; trường hợp một bên đương sự là người mất trí, người mắc bệnh tâm thần.
Đối với những vụ án không hòa giải được, Tòa án phải lập biên bản không hòa giải được, trong đó nêu rò lý do không hòa giải được, lưu vào hồ sơ và quyết định đưa vụ án ra xét xử.
- Về thủ tục hòa giải, khoản 1 Điều 44 của PLTTGQCVADS quy định: "Nguyên đơn, bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan phải có mặt khi hòa giải". Đối với trường hợp đương sự hoặc người đại diện của đương sự vắng mặt thì Tòa án hoãn phiên hòa giải để triệu tập lại. Nếu bị đơn vắng mặt đến lần thứ hai thì Tòa án quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 44 của Pháp lệnh thì nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về những vấn đề phải giải quyết trong vụ án, Thẩm phán lập biên bản hòa giải thành, sao gửi cho Viện kiểm sát cùng cấp và các tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung. Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày lập biên bản hòa giải thành mà các đương sự hoặc Viện kiểm sát cùng cấp và các tổ chức xã hội khởi kiện vì lợi ích chung có ý kiến thay đổi về nội dung biên bản hòa giải thành đó thì Tòa án ra quyết định đưa vụ án ra xét xử; nếu không có ý kiến thay đổi thì Tòa án ra quyết định công nhận sự thỏa
thuận của các đương sự. Quyết định này có hiệu lực pháp luật ngay khi được ban hành, không bị kháng cáo, kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm mà chỉ có thể bị kháng nghị theo thủ tục tái thẩm hoặc giám đốc thẩm nếu có sai lầm.
Trong trường hợp hòa giải không thành, các đương sự không thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết toàn bộ vụ án thì Tòa án lập biên bản hòa giải không thành và đưa vụ án ra xét xử (khoản 3 Điều 44 PLTTGQCVADS).
Tại phiên tòa sơ thẩm, nếu thấy có khả năng hòa giải thì Hội đồng xét xử tiến hành hòa giải. Theo Điều 52 của PLTTGQCVADS, nếu tại phiên tòa, các đương sự thỏa thuận với nhau về việc giải quyết vụ án thì Hội đồng xét xử đình chỉ việc giải quyết vụ án hoặc ra quyết định công nhận sự thỏa thuận đó [14].
Theo quy định của PLTTDS giai đoạn này, Tòa án cấp phúc thẩm có thể tiến hành hòa giải vụ án dân sự, trừ những trường hợp không hòa giải được hoặc pháp luật quy định không được hòa giải. Tại phiên tòa phúc thẩm, nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về giải quyết vụ án thì phải ghi đầy đủ vào biên bản phiên tòa. Trên cơ sở sự thỏa thuận của các đương sự, Hội đồng xét xử phúc thẩm công nhận sự thỏa thuận của các đương sự.
Việc hòa giải trong quá trình xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm chưa được quy định cụ thể. Tuy vậy, theo Điều 5 của PLTTGQCVADS thì Tòa án vẫn có thể tiến hành hòa giải.
Có thể thấy rằng, sự ra đời của PLTTGQCVADS là một bước phát triển mới trong quá trình phát triển của pháp luật về TTDS nói chung và chế định hòa giải nói riêng. Pháp lệnh đã quy định rất cụ thể, chi tiết về trình tự, thủ tục hòa giải, những vụ việc không được hòa giải... Tuy nhiên, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của nền kinh tế, các quy định của Pháp lệnh đã không còn phù hợp với tình hình phát triển xã hội nói chung. Chẳng hạn, phạm vi điều
chỉnh của chế định hòa giải không bao trùm được hết các đối tượng tham gia giao dịch dân sự; quy định về việc công nhận sự thỏa thuận tại phiên tòa sơ thẩm chưa cụ thể; thiếu quy định về những trường hợp không hòa giải được; chưa có quy định về thủ tục hòa giải ở giai đoạn giám đốc thẩm, tái thẩm; chưa quy định người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự có nhất thiết phải có mặt trong quá trình hòa giải...
1.2.5. Giai đoạn từ năm 2004 đến nay
Để đáp ứng nhu cầu điều chỉnh việc giải quyết các tranh chấp dân sự trong tình hình mới, khắc phục những tồn tại trong hệ thống PLTTDS, ngày 15 tháng 6 năm 2004, Bộ luật Tố tụng dân sự đã được Quốc hội khóa XI thông qua tại kỳ họp thứ V. Sau khi BLTTDS được ban hành, TANDTC và các cơ quan hữu quan đã ban hành nhiều văn bản hướng dẫn thi hành Bộ luật này như: Nghị quyết số 32/2004/QH11 ngày 15/6/2004 của Quốc hội về việc thi hành BLTTDS; Nghị quyết số 742/2004/NQ-UBTVQH11 ngày 24/12/2004 của ủy ban thường vụ Quốc hội về việc giao thẩm quyền giải quyết vụ việc dân sự quy định tại Điều 33 của BLTTDS cho TAND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; Nghị quyết số 01/2005/NQ-HĐTP ngày 31/3/2005 của HĐTP TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ nhất "Những quy định chung" của BLTTDS; Nghị quyết số 04/2005/NQ-HĐTP ngày 17/9/2005 của HĐTP TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định của BLTTDS về "chứng minh và chứng cứ"; Nghị quyết số 02/2006/NQ-HĐTP ngày 12/5/2006 HĐTP TANDTC hướng dẫn thi hành các quy định trong Phần thứ hai "Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp sơ thẩm" của BLTTDS; Nghị quyết số 05/2006/NQ-HĐTP ngày 04/8/2006 của HĐTP TANDTC hướng dẫn thi hành một số quy định trong Phần thứ ba "Thủ tục giải quyết vụ án tại Tòa án cấp phúc thẩm" của BLTTDS...
BLTTDS quy định những nguyên tắc cơ bản trong TTDS; trình tự và thủ tục khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết các vụ việc dân sự, hôn nhân và