Các nhân tố tác động đến việc vận dụng kế toán quản trị trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam - 13


lực lượng nòng cốt trong việc triển khai và vận dụng KTQT, nên nếu trình độ chuyên môn về KTQT không đáp ứng yêu cầu sẽ khiến cho việc vận dụng KTQT trong DNNVV sẽ không thực hiện được, hoặc thực hiện nhưng không hiệu quả.

Kết quả bàn luận này tương thích với nghiên cứu trước đây của Ismail and King (2007), McChlery et al. (2004). Theo kết quả này thì trình độ nhân viên kế toán càng cao dẫn đến khả năng thành công cao khi vận dụng KTQT trong doanh nghiệp. Xét về khía cạnh này hầu hết các chuyên gia đều đồng tình, tuy nhiên khi vận dụng vào môi trường Việt Nam thì vấn đề trình độ của nhân viên kế toán DN được đo lường như thế nào lại cần phải xem xét kỹ lưỡng. Do vậy bên cạnh hệ thống bằng cấp do các trường Đại học, Cao đẳng (chuyên nghiệp và dạy nghề) phát hành thì các chứng chỉ nghề nghiệp đặc thù của ngành kế toán như chứng chỉ Kế toán trưởng, CPA, ACCA, CMA

…vv.. cũng cần được đưa vào xem xét thêm. Vì vậy kết quả thảo luận thống nhất sử dụng các biến quan sát liên quan đến bằng cấp bao gồm bằng cử nhân, chứng chỉ trung cấp, cao đẳng nghề trong nước và chứng chỉ kế toán – kiểm toán quốc tế để phục vụ đo lường trình độ nhân viên kế toán trong DN.

- Nhân tố chiến lược kinh doanh: một đặc điểm của DNNVV là có cơ cấu gọn nhẹ nên có khả năng điều chỉnh giá cả linh hoạt, sản phẩm có thể chuyên biệt theo yêu cầu của khách hàng (thị trường ngách) về số lượng, mẫu mã, thời gian …Do đó chiến lược kinh doanh dựa vào sự linh hoạt được coi là một trong những vũ khí lợi hại nhất của các DNNVV, đặc biệt trong những năm gần đây khi các DN phải đáp ứng nhu cầu của thị trường luôn luôn thay đổi. Điều này theo các chuyên gia sẽ tác động tới việc vận dụng KTQT về mặt nội dung lựa chọn các công cụ kỹ thuật hỗ trợ để có thể theo đuổi chiến lược kinh doanh linh hoạt nói trên. Và ở chiếu tác dụng trở lại thì khi lựa chọn chiến lược kinh doanh linh hoạt, DNNVV sẽ phát sinh nhu cầu cao về vận dụng KTQT, làm tiền đề thuận lợi cho việc vận dụng KTQT trong DN.

Theo nghiên cứu trước đây của Tuan Zainun Tuan Mat (2010) thì chiến lược kinh doanh linh hoạt có thể diễn giải, đo lường qua các hành động như sau: tạo sự thay đổi về thiết kế sản phẩm và nhanh chóng giới thiệu ra thị trường; sản xuất hàng hóa, dịch vụ chuyên biệt theo yêu cầu của khách hàng; mức độ sẵn có của hàng hóa (hệ thống phân phối rộng); chất lượng của việc cung cấp dịch vụ hỗ trợ sau bán hàng; DN có thể nhanh chóng thay đổi sản lượng sản xuất; DN cung cấp sản phẩm với chất lượng cao;


DN sản xuất theo yêu cầu giao hàng. Đối với thang đo này các chuyên gia đồng ý sử dụng các biến quan sát có sẵn và không có ý kiến hoặc bổ sung thêm.

- Nhân tố mức độ sở hữu của nhà nước: đây cũng là nhân tố mới theo đề xuất của các chuyên gia dựa vào tình hình thực trạng vận dụng KTQT tại các DNNVV Việt Nam. Mặc dù chiếm tỷ lệ rất nhỏ trong DNNVV nhưng đa phần các DNNVV do nhà nước sở hữu đều có quy mô vừa, do đó xu hướng hiện nay là chuyển giao quyền sở hữu của nhà nước cho tư nhân qua quá trình cổ phần hóa. Do tư duy quản lý bị ảnh hưởng nặng nề bởi nền kinh tế bao cấp, cũng như sự quan liêu, cứng nhắc trong quản lý kinh tế làm cho việc vận dụng KTQT trong các DN thuộc sở hữu nhà nước gặp nhiều khó khăn. Chỉ khi chuyển giao quyền quản lý cho bộ phận kinh tế tư nhân, do yêu cầu cao về quản trị DN thì các DN có sự tham gia của vón góp nhà nước mới có thể linh hoạt vận dụng các công cụ quản trị hiện đại, trong đó có các công cụ kỹ thuật của KTQT. Và đi kèm với việc chuyển giao quyền sở hữu từ nhà nước sang tư nhân, đồng thời vời việc chuyển giao quyền quản lý, ra quyết định tại một số vị trí chủ chốt, đứng đầu trong DN cho bộ phận tư nhân như giám đốc, kế toán trưởng … Do đó các chuyên gia gợi ý sử dụng các biến quan sát như tỷ lệ góp vốn của nhà nước không vượt quá bán, không có người thuộc cơ quan nhà nước điều phối quản lý DN tại các vị trí chủ chốt của DN …

- Nhân tố mức độ cạnh tranh của thị trường và nhân tố nhận thức về sự bất ổn của môi trường: các chuyên gia đều đồng ý quan điểm rằng đối với môi trường kinh doanh càng cạnh tranh và bất ổn thì các DNNVV Việt Nam càng cần phải vận dụng các công cụ kỹ thuật của KTQT nhằm dự báo, tập hợp thông tin để ra quyết định phù hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh. Ngoài ra nếu mức độ cạnh tranh càng cao đòi hỏi kỹ thuật vận dụng càng phức tạp. Điều này cũng tương thích với nghiên cứu trước đây của Tuan Zainun Tuan Mat (2010), trong đó mức độ cạnh tranh của thị trường có thể diễn giải, đo lường qua mức độ của các hành động cạnh tranh như sau: cạnh tranh về giá, cạnh tranh trong việc phát triển sản phẩm mới, cạnh tranh về các kênh phân phối/marketing, cạnh tranh về thị phần/doanh thu, số lượng các đối thủ cạnh tranh trong cùng phân khúc thị trường và các hành động cạnh tranh của các đối thủ. Đối với thang đo này các chuyên gia nhận xét các biến quan sát tương đối phù


hợp với đặc điểm kinh doanh Việt Nam, vì vậy đồng ý không có ý kiến hoặc bổ sung thêm.

Tuy nhiên đối với nhân tố nhận thức về sự bất ổn của môi trường, các chuyên gia đồng tình quan điểm rằng nhân tố này thực ra có nét tương đồng và phần nào thể hiện (hay chịu sự tác động) của nhân tố mức độ cạnh tranh của thị trường. Điều này có thể diễn giải theo xu hướng là khi mức độ cạnh tranh của thị trường càng cao, DN sẽ hoạt động kinh doanh khó khăn hơn và làm cho bản thân các người chủ DN cảm nhận thị trường bất ổn ở mức độ cao hơn, tuy nhiên nhân tố này mang nặng tính cảm quan từ phía người chủ DN. Ngoài ra, nhân tố nhận thức về sự bất ổn của môi trường cũng có thể chịu sự tác động từ các yếu tố khác như sự mâu thuẫn về sắc tộc, đảng phái chính trị, chiến tranh … Tuy nhiên thực tế này lại không phù hợp đối với tình hình hiện tại của Việt Nam, do đó có thể gộp chung hai nhân tố này và đo lường thông qua duy nhất nhân tố đại diện là nhân tố mức độ cạnh tranh của thị trường.

- Nhân tố nhận thức về KTQT của người chủ/người điều hành DN: đây cũng là nhân tố mới theo đề xuất của các chuyên gia dựa vào tình hình thực trạng vận dụng KTQT tại các DNNVV Việt Nam. Do bối cảnh kinh tế của Việt Nam mới chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường thời gian sau này, nên hầu hết các DNNVV chưa làm quen với KTQT mà chỉ tập trung vào KTTC theo các yêu cầu, mệnh lệnh của cơ quan quản lý hơn là nhu cầu quản trị thực tế của DN. Do đó việc vận dụng KTQT khó thành công hoặc thậm chí không thể vận dụng nếu người chủ/người điều hành DN không hiểu biết về lợi ích do việc vận dụng các công cụ kỹ thuật KTQT mang lại. Và chính sự hiểu biết về các công cụ kỹ thuật KTQT mới giúp cho người chủ/người điều hành DN phát sinh nhu cầu về việc vận dụng KTQT vào DN mình, giúp họ đánh giá cao về tính hữu ích của các công cụ kỹ thuật KTQT và không ngần ngại trong việc bỏ chi phí đầu tư vào việc vận dụng KTQT.

- Nhân tố thiết kế tổ chức phân quyền: theo đặc thù cơ cấu tổ chức của các DNNVV, đặc biệt là các DN nhỏ và siêu nhỏ thì hầu hết đều chọn hình thức quản lý tập quyền, ngoài ra việc lựa chọn hình thức quản lý còn bị ảnh hưởng bởi nhân tố văn hoá doanh nghiệp. Do đó các chuyên gia đề xuất loại bỏ việc đo lường nhân tố này riêng biệt, thay vào đó có thể xem xét ảnh hưởng của nhân tố này phần nào qua thang đo văn hoá doanh nghiệp đã đề cập ở trên.


- Nhân tố nguồn lực khách hàng: qua khảo sát thực tế cũng như tham khảo ý kiến chuyên gia, hầu hết đều đồng tình rằng thực tế tại Việt Nam gần như không thể tiến hành xác định và đo lường được các tiêu chí về mức độ mạnh yếu đối với nguồn lực khách hàng. Do đó việc đo lường tác động của nhân tố này đến khả năng vận dụng KTQT tại các DNNVV tại Việt Nam là không khả thi, nên loại bỏ nhân tố này ra cuộc khảo sát.

- Nhân tố tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư ngoại trong DN: theo kết quả thống kê của Tổng cục thống kê (2014) về tình hình sản xuất của DN có vốn đầu tư nước ngoài giao đoạn 2000 – 2013 thì chỉ có khoảng 17% là DN liên doanh với nước ngoài. Ngoài ra theo đặc điểm đầu tư thì hầu hết các nhà đầu tư nước ngoài có yêu cầu rất khắt khe về tính minh bạch tài chính khi đầu tư vào các DN Việt Nam, vốn đầu tư lớn, điều đó có nghĩa là tỷ lệ DNNVV tham gia liên doanh với các nhà đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng không đáng kể. Do đó hầu hết các chuyên gia đều đồng ý loại bỏ nhân tố này khi kiểm định tác động đến việc vận dụng KTQT trong các DNNVV tại Việt Nam.

- Nhân tố ngành nghề kinh doanh (hay các nhân tố kỹ thuật sản xuất) tiên tiến (ATM), kỹ thuật quản trị toàn diện(TQM), kỹ thuật quản trị Just in time … theo lý thuyết ngẫu nhiên cũng như các công trình nghiên trước đây của các tác giả Khaled Abed Hutaibat (2005), Tuan Zainun Tuan Mat (2010), Abdel-Kader and Luther, R.(2008) đó là các nhân tố quan trọng tác động đến việc vận dụng KTQT trong doanh nghiệp. Tuy nhiên đặc thù của những doanh nghiệp này là hoạt động trong các lĩnh vực áp dụng nhiều về công nghệ tiên tiến như một số ngành nghề đặc thù dược, hóa chất … Tuy nhiên đối với đa số các DNNVV tại Việt Nam vì nhiều yếu tố như công nghệ, quy mô vốn, trình độ quản lý … nên không tham gia vào các ngành nghề nêu trên. Vì vậy nhân tố này được các chuyên gia đề xuất loại bỏ ra vì không mang tính đại diện cao.

- Nhân tố khả năng vận dụng KTQT trong DNNVV Việt Nam: theo các chuyên gia khả năng vận dụng KTQT trong các DN nói chung và các DNNVV nói riêng thể hiện ở khả năng vận dụng các nội dung KTQT, hay việc vận dụng các công cụ kỹ thuật KTQT. Do đó các biến quan sát của nhân tố (thang đo) này sẽ được thể hiện qua các


phần hành KTQT, bao gồm các công cụ kỹ thuật đặc trưng như các công cụ kỹ thuật KTQT chi phí, đánh giá hiệu suất, dự toán, hỗ trợ ra quyết định và KTQT chiến lược.

Sau khi tổng hợp các hiệu chỉnh, bổ sung và thay đổi thì kết quả được trình bày trong bảng như sau:

Bảng tổng hợp kết quả thảo luận với các chuyên gia


Mô hình đề xuất

Kết quả thảo luận

Ghi chú

Nhân tố ảnh

hưởng

Nghiên cứu

gốc

Nhân tố ảnh

hưởng

Giả thuyết

nghiên cứu

Cách thức đo

lường

Thiết kế tổ

Tuan Zainun

Loại bỏ

Loại bỏ


Hình thức

chức phân

Tuan Mat

(2010)



phân quyền

quyền




cao không phù





hợp và chiếm





thiểu số trong





các DNNVV

Nguồn lực

Tuan Zainun

Loại bỏ

Loại bỏ


Không khả thi

khách hàng

Tuan Mat

(2010)



khi đánh giá





hay đo lường





nguồn lực





khách hàng





của các





DNNVV

Tỷ lệ sở hữu

Tuan Zainun

Loại bỏ

Loại bỏ


Hình thức liên

của nhà đầu tư

Tuan Mat

(2010)



doanh giữa

ngoại trong




các nhà đầu tư

DN




ngoại và





DNNVV Việt





Nam chiếm tỷ





lệ rất thấp

Ngành nghề

Khaled Abed

Loại bỏ

Loại bỏ


Ngành nghề

kinh doanh

Hutaibat

(2005), Tuan



kinh doanh

(hay các nhân

Zainun Tuan



tiên tiến đòi

tố kỹ thuật sản

Mat (2010),

Abdel-Kader



hỏi công nghệ

xuất) tiên tiến

and Luther,



cao không phổ

(ATM), kỹ

R.(2008)



biến trong các

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 185 trang tài liệu này.

Các nhân tố tác động đến việc vận dụng kế toán quản trị trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam - 13


thuật quản trị toàn diện

(TQM), kỹ

thuật quản trị Just in time





DNNVV

Nhận thức về sự bất ổn của môi trường

Tuan Zainun Tuan Mat (2010)

Hiệu chỉnh

Hiệu chỉnh


Kết hợp đo lường cùng nhân tố mức độ cạnh tranh

của thị trường

Trình độ nhân

Ismail and

Đồng ý

Nhân viên kế

Các cấp độ


viên kế toán

King (2007),

McChlery et


toán sở hữu

của các bằng

DN

al. (2004)


các bằng cấp,

cấp, chứng chỉ




chứng chỉ

nghề, chứng




nghề, chứng

chỉ kế toán




chỉ kế toán

chuyên nghiệp




chuyên nghiệp





sẽ làm tăng





khả năng vận





dụng KTQT





trong DNNVV





Việt Nam


Quy mô DN

Klaus Flacke

Đồng ý

Quy mô DN

Doanh thu, số



và Klaus

Segbers


càng lớn sẽ

vốn, số lượng


(2005),


làm tăng khả

nhân viên, số


Khaled Abed

Hutaibat


năng vận dụng

phòng ban, chi


(2005)


KTQT trong

nhánh




DNNVV Việt





Nam


Văn hóa DN

Alper Erserim

Đồng ý

Trong DN có

Văn hoá hỗ



(2012)


nền văn hóa

trợ; văn hoá




hỗ trợ/ văn

quản lý theo




hóa quản lý

mục tiêu




theo mục tiêu





sẽ làm tăng





khả năng vận






dụng KTQT trong DNNVV

Việt Nam



Chiến lược kinh doanh

Tuan Zainun Tuan Mat (2010)

Đồng ý

DN vận dụng chiến lược kinh doanh

linh hoạt sẽ làm tăng khả năng vận dụng KTQT trong DNNVV Việt

Nam

Sự linh hoạt của chiến lược

kinh doanh


Mức độ cạnh

Tuan Zainun

Đồng ý

DN hoạt động

Mức độ cạnh


tranh

của thị

Tuan Mat

(2010)


trong môi

tranh của đối

trường



trường kinh

thủ, thị phần,




doanh có mức

giá cả, sản




độ cạnh tranh

phẩm




càng cao sẽ





làm tăng khả





năng vận dụng





KTQT trong





DNNVV Việt





Nam


Chi

phí cho

Các

chuyên

Đồng ý

Yêu cầu về chi

Yêu cầu về chi


việc

tổ chức

gia

bổ sung


phí tổ chức

phí đầu tư

KTQT

mới


KTQT trong

công nghệ, tư




DN càng thấp

vấn …




sẽ làm tăng





khả năng vận





dụng KTQT





trong DNNVV





Việt Nam


Mức

độ sở

Các

chuyên

Đồng ý

Yêu cầu về chi

Yêu cầu về chi


hữu

của nhà

gia

bổ sung


phí tổ chức

phí đầu tư

nước

trong

mới


KTQT trong

công nghệ, tư

DNNVV



DN càng thấp

vấn …





sẽ làm tăng khả năng vận dụng KTQT trong DNNVV

Việt Nam



Nhận thức về

Các

chuyên

Đồng ý

Người

Hiểu biết về


KTQT của

gia

bổ sung


chủ/người

KTQT, đánh

người

mới



điều hành DN

giá cao về tính

chủ/người




có hiểu biết về

hữu ích của

điều hành DN




KTQT sẽ làm

các công cụ kỹ





tăng khả năng

thuật KTQT,





vận dụng

có nhu cầu





KTQT trong

cao về vận





DNNVV Việt

dụng KTQT,





Nam

chấp nhận chi






phí đầu tư cao






cho KTQT


Như vậy từ mô hình nghiên cứu ban đầu, sau khi thảo luận xin ý kiến các chuyên gia mô hình nghiên cứu đã được hiệu chỉnh lại bao gồm 08 nhân tố tác động việc vận dụng KTQT trong DNNVV Việt Nam như sau: nhân tố quy mô doanh nghiệp, chi phí tổ chức KTQT, nhân tố văn hóa doanh nghiệp, nhân tố trình độ nhân viên kế toán doanh nghiệp, nhân tố chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp, nhân tố mức độ sở hữu của nhà nước trong doanh nghiệp, nhân tố mức độ cạnh tranh của thị trường và nhân tố nhận thức về KTQT của người chủ/người điều hành doanh nghiệp.

Xem tất cả 185 trang.

Ngày đăng: 06/05/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí