Khuyến Nghị Nhằm Quản Lý Và Kiểm Soát Tín Dụng Đen


- Xây dựng khung pháp lý, chế tài rõ ràng, mạch lạc cho các rủi ro có thể xảy ra khi giao dịch ngân hàng điện tử.

● Một số kiến nghị khác

- Có các chính sách khuyến khích, thúc đẩy các ngân hàng phát triển ngân hàng tự động LiveBank hoạt động 24/7 hỗ trợ các dịch vụ như mở tài khoản tiết kiệm, nhận tiền gửi,….có thể hướng tới hỗ trợ tín dụng nhằm thuận tiện hơn cho các cá nhân kinh doanh các ngành nghề có thời gian đòi hỏi linh động, khó có thể đến các tổ chức tín dụng trong giờ hành chính, đáp ứng nhanh nhu cầu vốn của các hộ gia đình.

- Tổ chức các buổi chia sẻ, các chương trình chia sẻ kinh nghiệm giữa những người cùng ngành nghề, khuyến khích hợp tác làm ăn, cùng nhau tiến bộ. Bài học thực tế từ những hộ kinh doanh tại các chợ Thái Lan, họ hợp tác thay vì tranh giành địa bàn, cùng nhau tạo nên một môi trường làm ăn lành mạnh, cạnh tranh tích cực, cùng nhau phát triển. Việc này sẽ giúp nâng cao hiểu biết của các hộ gia đình, rút ngắn khoảng cách về kinh nghiệm, từ đó nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng chính thức.

- Hiện nay, việc thanh toán điện tử không dùng tiền mặt tại Việt Nam còn rất hạn chế, lý do chính là những bất tiện trong việc thanh toán khi rất nhiều hàng hóa dịch vụ tại Việt Nam không chấp nhận hình thức thanh toán này, điển hình là những hàng quán, tiệm tạp hóa đường phố, .... Chi phí duy trì hoạt động quá lớn chính là yếu tố khiến các chủ hộ này e ngại việc lắp đặt hệ thống thanh toán thẻ. Nhà nước nên có các chính sách hỗ trợ giảm chi phí, có các khoản ưu đãi đối với các chủ hộ gia đình. Việc thanh toán không dùng tiền mặt được đẩy mạnh sẽ là một bước tiến lớn trong việc minh bạch hóa các khoản thu chi, giúp cho việc kê khai và kiểm soát doanh thu được dễ dàng hơn. Các tổ chức tín dụng cũng có thể tận dụng những nguồn này để việc xét duyệt tín dụng được nhanh chóng và chính xác, tăng khả năng tiếp cận tín dụng cho các hộ gia đình nói riêng và các chủ thể trong nền kinh tế nói chung.

4.2.1.2. Khuyến nghị nhằm quản lý và kiểm soát tín dụng đen

Ở Việt Nam hiện nay mặc dù đã có các quy phạm pháp luật điều chỉnh lãi suất cho vay như Luật các tổ chức tín dụng, Luật Dân sự 2015, Bộ Luật hình sự 2015…, song vẫn còn có những khoảng trống hoặc chưa thực sự rõ ràng, chưa có sự nhất quán, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng đen “lách luật” vận dụng một cách bất lợi lớn đối với nguòi cho vay và gây khó khăn cho cơ quan thanh tra giám sát. Tiếp đến, khi tiến hành xử lý các hoạt động tín dụng đen, khó khăn về mức răn đe và việc áp dụng các chế tài để xử lý tội cho vay nặng lãi hiện nay vẫn gặp rất nhiều khó khăn. Theo Điều 468 của Luật Dân sự (2015), lãi suất vay vốn do các bên thỏa thuận; lãi suất theo thỏa thuận


không được vượt quá 20%/năm, trừ trường hợp luật khác có liên quan quy định khác. Như vậy, Luật các Tổ chức tín dụng cho phép thỏa thuận lãi suất, cho nên các tổ chức tín dụng đen đã lập luận rằng được phép áp dụng lãi suất thỏa thuận với nguòi vay tiền theo qui định đó. Tuy nhiên, Điều 201 Bộ luật hình sự (2015) qui định trần lãi suất cho vay trong giao dịch dân sự không được cao hơn 5 lần mức lãi suất cao nhất (được hiểu là trên 100%/năm) theo quy định trong Bộ luật dân sự, thu lợi bất chính từ 30.000.000VND (ba mươi triệu đồng) đến 200.000.000VND (hai trăm triệu đồng) sẽ bị coi là cho vay nặng lãi trong giao dịch dân sự. Việc Bộ luật Hình sự viện dẫn Luật dân sự mà không viện dẫn đến luật chuyên ngành dẫn đến chưa đầy đủ, chưa nhất quán và gây ra khó khăn trong việc xử lý những hành vi cho vay nặng lãi.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 226 trang tài liệu này.

Trên cơ sở đó, khuyến nghị thứ nhất là rà soát và bổ sung hệ thống các văn bản pháp luật để có thể phát hiện, khỏi tố điều tra và xử lý nghiêm khắc nhất các hành vi cho vay nặng lãi hay tín dụng đen. Cụ thể cần tập trung xác định và làm rõ: (1) quy định và phổ biến những dấu hiệu để nhận biết và định danh hoạt động tín dụng đen bằng cách đưa ra những tiêu chí hay chỉ tiêu cụ thể làm căn cứ phân biệt rõ tín dụng chính thức, tín dụng không chính thức và tín dụng đen thông qua các nội dung giao dịch như lãi suất, quy mô cho vay, cơ sở pháp lý của người cho vay, nội dung hợp đồng vay vốn, bao gồm các điều khoản liên quan đến hoàn trả và xử lý tranh chấp; (2) xác định hay định danh rõ hành vi tổ chức cho vay nặng lãi và các hành vi liên quan là hành vi vi phạm pháp luật; người cho vay hoặc tổ chức cho vay nặng lãi hay tín dụng đen là đối tượng phải xử lý hình sự, không phân biệt theo số tiền cũng như theo các định mức hoặc các tiêu chí khác nhau để tránh sự “lách luật” hay các hình thức tiêu cực khác; (3) xây dựng cơ chế thu thập thông tin, báo cáo về các hành vi cho vay nặng lãi hay tín dụng đen, thông qua các hình thức khuyến khích, bảo vệ người dân phát hiện và tố cáo các hành vi tín dụng đen trực tiếp hay qua số điện thoại hotline, hộp thư tố giác tội phạm, hoặc báo cáo qua các tổ chức chính quyền địa phương, các tổ chức quần chúng…, để kịp thời ngăn chặn, xử lý; (4) xây dựng cơ chế thưởng phạt nghiêm minh cho cán bộ chuyên trách, cảnh sát điều tra và xử lý những hành vi tín dụng đen hay cho vay nặng lãi khi được tiếp nhận thông tin tố giác, báo cáo và giao trách nhiệm xử lý vụ việc về tín dụng đen hay cho vay nặng lãi cho cá nhân, tổ chức chịu trách nhiệm để có cơ sở giám sát việc thực hiện; (5) một cách toàn diện, cần xây dựng các hình thức xử lý đối với người đi vay sau khi đã được tuyên truyền, cảnh báo về tín dụng đen và đặc biệt sau khi đã được phổ biến về cách tiếp cận các nguồn tài chính hỗ trợ khi cần thiết của các chương trình tổ chức tài chính.


Các nhân tố ảnh hưởng đến tiếp cận tín dụng của hộ kinh doanh cá thể tại Việt Nam - 16

Khuyến nghị thứ hai, Chính phủ cần sớm ban hành các quy định làm cơ sở pháp lý cho việc quản lý đối với các hoạt động tài chính ứng dụng công nghệ mới và có nguy cơ trở thành tín dụng đen ở Việt Nam. Trên thực tế hiện nay có rất nhiều các hình thức tín dụng đen hay cho vay nặng lãi dựa trên sự ứng dụng công nghệ thông tin, hoạt động tài chính trực tuyến và trên điện thoại smartphone. Điển hình như các hoạt động cho vay qua mạng (credit online), cho vay ngang hàng (peer to peer lending - P2P lending) và cho vay bằng cách truy cập vào các ứng dụng trên điện thoại di động hay máy tính nối mạng (Applications - App) và các hình thức khác. Trước những diễn biến này, Chính phủ đã ban hành Nghị định 19/2019/NĐ-CP ngày 19/2/2019 nhằm điều chỉnh việc thành lập và hoạt động của họ, hụi, biểu, phường, giảm nguy cơ bùng phát và mất kiểm soát của tín dụng đen. Tuy nhiên, đối với hình thức cho vay ngang hàng được tổ chức bởi các công ty công nghệ tài chính (fintech) vẫn chưa có các quy định pháp lý, đặc biệt đa số các hình thức cho vay ngang hàng này tại một số nước cũng như tại Việt Nam hiện nay đã cho thấy thực chất là hoạt động của tín dụng đen với lãi suất rất cao và áp dụng hình thức đòi nợ theo kiểu xã hội đen. Do đó, việc quản lý chặt hơn các hình thức này là điều cần thiết nhằm hạn chế những trường hợp biến tướng chuyển thành hoạt động tín dụng đen mà vẫn mang danh nghĩa là các hình thức công ty công nghệ tài chính (fintech). Quản lý chặt chẽ không có nghĩa là cấm hay cản trở sự phát triển các sản phẩm công nghệ tài chính hiện đại nhưng với những gì đã xảy ra ở các nước mà điển hình là ở Trung Quốc thì các hoạt động này cần phải được quản lý và giám sát trong một hành lang pháp lý rõ ràng, minh bạch với những quy định cụ thể và chế tài xử lý nghiêm minh nhằm hạn chế những hậu quả đối với xã hội và khả năng hát triển thành tín dụng đen hay tín dụng theo kiểu đa cấp.

Khuyến nghị thứ ba là Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước sớm ban hành một chương trình cho vay (bao gồm các quy định về điều kiện tham gia của các TCTD, các quy định nhằm khuyến phát triển các sản phẩm cho vay) để hạn chế, ngăn chặn và loại bỏ tín dụng đen. Trước hết là việc nghiên cứu và công bố một Chương cho vay đặc biệt nhằm hỗ trợ người dân có nhu cầu đặc biệt nhưng không thể tiếp cận các nguồn vốn thương mại từ hệ thống tài chính chính thức. Mục đích của Chương trình này có thể được xác định cụ thể giống như nhiều chương trình tín dụng phát triển đã được triển khai ở Việt Nam, song phương thức thực hiện thì hoàn toàn khác. Các TCTD, chủ yếu là các NHTM sẽ được đăng ký tham gia khi thỏa mãn các điều kiện nhất định:

(1) tự nguyện tham gia và tham gia; (2) xác định và đăng ký quy mô nguồn vốn nhất

định (từ vốn chủ sở hữu và không ảnh hưởng đến khả năng chi trả cho khách hàng);

(3) cam kết cung cấp các sản phẩm có thể đáp ứng nhu cầu chính đáng của những


người nghèo và đang trong hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Kết quả khảo sát điều tra cũng như tiếp xúc với một số NHTM chỉ ra rằng các NHTM và nhiều tổ chức tài chính khác mong muốn và có thể mở rộng cung cấp thêm các sản phẩm cho vay tiêu dùng đặc biệt, góp phần đáp ứng nhu cầu của các cá nhân, hộ nghèo, nhất là khi phải giải quyết những khó khăn bất khả kháng. Đa số các chuyên gia tài chính và các nhà quản lý được hỏi đề thống nhất rằng việc các TCTD triển khai các sản phẩm cho vay tiêu dùng đặc biệt, hướng tới đối tượng khách hàng đặc biệt này là một trong những giải pháp cơ bản cần được khuyến nghị nhằm hạn chế sự tồn tại và lan rộng của tín dụng đen.

Thực tế hiện nay cũng cho thấy, nhu cầu vay tiêu dùng của người dân nói chung là rất lớn trong đó một bộ phận không nhỏ những hộ gia đình có nhu cầu vay vốn là những người có thu nhập thấp, công việc không ổn định, không có tài sản thế chấp nên khả năng tiếp cận với các khoản vay từ các NHTM và các tổ chức tài chính chính thức là điều rất khó khăn. Song bên cạnh đó còn là các quy định của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đối với hoạt động cho vay tiêu dùng của các TCTD. Qua đó, thấy rằng cần phải bổ sung những quy định mới, đi đôi với hoàn thiện những quy định hiện hành đối với hoạt động cho vay tiêu dùng sao cho có thể chuẩn mực hệ thống cơ sở pháp lý để các TCTD phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng nói chung và cho vay hạn chế, xóa bỏ tín dụng đen nói riêng. Một cách cụ thể hơn, NHNN nên có quy định riêng về việc đánh giá, phân loại hay xếp hạng các TCTD tín dụng khi tham gia và thực hiện Chương trình cho vay hạn chế, ngăn chặn và loại bỏ tín dụng đen. Theo đó, coi các món vay thuộc Chương trình này như những món cho vay “dưới chuẩn” và không đánh giá hay phân loại chất lượng tín dụng theo các chuẩn mực và thông lệ như các món vay thông thường. Trên cơ sở tham khảo, học tập kinh nghiệm của một số quốc gia trong việc hạn chế các hoạt động cho vay nặng lãi, cụ thể là từ Trung quốc, khuyến cáo thứ ba này là rất cần thiết để tạo ra nguồn lực và động lực cho các TCTD Việt Nam sẵn sàng tham gia vào “Chương trình hạn chế, ngăn chặn và loại bỏ tín dụng đen”. Theo đó, các quy định của Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước cần thể hiện sự khuyến khích hỗ trợ rõ ràng, cụ thể có thể cho các tổ chức tín dụng tự cân đối, hay cho phép tách cho vay tiêu dùng và cho vay hỗ trợ để loại bỏ tín dụng đen, hạch toán riêng về thu nhập và rủi ro tín dụng v.v…

Khuyến nghị thứ tư, Chính phủ cần chỉ đạo sớm các Bộ, Ngành hoàn thiện các quy định và tạo điều kiện cho phép áp dụng nhận diện số, sử dụng chữ ký số và khả năng truy cập những thông tin cơ bản cần thiết để các tổ chức tín dụng có thể phát triển các sản phẩm tài chính gắn với công nghệ mới (fintech). Đồng thời, các cơ quan quản


lý Nhà nước cần khẩn trương hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu dân cư quốc gia - điều kiện tiên quyết để phát triển kinh tế số nói chung và tài chính số nói riêng. Khuyến nghị này sẽ cho phép cho các TCTD triển khai thực hiện dịch vụ ngân hàng số để tăng cường tiện ích và giảm thấp chi phí của hoạt động cho vay đối với người ghèo, người gặp hoàn cảnh khó khăn. Được như vậy, các NHTM và các TCTD khác có thể cạnh tranh về với các tổ chức tín dụng đen không chỉ về sự tiện lợi mà còn cả về chi phí hành chính cũng như chi phí về thời gian để thực hiện giải ngân. Người dân khi đã có cơ hội được tiếp cận nguồn vốn của ác TCTD chính thức với lãi suất vừa phải một cách nhanh chóng, kịp thời chắc chắn sẽ không có lý do để tìm đến tín dụng đen. Mặt khác, với các sản phẩm huy động vốn cộng đồng, ví điện tử, v.v..., các NHTM có thể tiến hành các hoạt động cho vay ngang hàng, tận dụng tốt hơn thành quả công nghệ, song vẫn kiểm soát được rủi ro và tăng khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính của người dân và doanh nghiệp.

Khuyến nghị thứ năm, Chính phủ sớm chỉ đạo quyết liệt các cấp chính quyền, các Bộ, Ngành liên quan từ trung ương đến địa phương có trách nhiệm và tích cực hạn chế, ngăn chặ và loại bỏ tín dụng đen. Nếu khuyến nghị này được áp dụng sẽ tạo ra cơ chế phối hợp đồng bộ từ việc giám sát đến việc thực hiện hạn chế, ngăn ngừa và loại bỏ tín dụng đen trên tất cả các lĩnh vực và mọi địa bàn của tất cả các địa phương. Sự tham gia phối hợp đầy đủ của hệ thống chính trị, các tổ chức xã hội và quần chúng như vậy không chỉ tạo ra sức mạnh tổng hợp mạnh mẽ, sâu rộng của toàn bộ nền kinh tế mà còn khơi dậy những giá trị của phong tục truyền thống, tập quán và thói quen về tâm lý xã hội, góp phần giảm thiểu rủi ro cho các TCTD khi tham gia và thực hiện cho vay hạn chế, ngăn chặn và loại bỏ tín dụng đen. Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính là các cơ quan quản lý nhà nước về hệ thống tài chính, liên quan trực tiếp đến nguồn lực về tài chính, ban hành và giám sát thực hiện toàn bộ các quy định về hoạt động của các TCTD chính thức và không chính thức, cần đi đầu trong việc tư vấn chính quyền các địa phương tham gia tích cực vào Chương trình. Bộ Thông tin và Truyền thông là cơ quan chuyển tải sự đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật và các quy định liên quan đến việc triển khai tổ chức thực hiện và cập nhật kết quả của tất cả các biện pháp hạn chế tín dụng đen. Chính quyền các cấp, các tổ chức chính trị, xã hội, các tổ chức quần chúng và hiệp hội nghề nghiệp từ trung ương đến địa phương sẽ trực tiếp tham gia và góp phần quan trọng vào việc bảo đảm sự thành công của các hoạt động ngăn chặn, loại bỏ tín dụng đen.


4.2.2. Khuyến nghị đối với các tổ chức tín dụng

4.2.1.1. Nhằm tăng khả năng cung cấp tín dụng chính thức cho các hộ kinh doanh cá thể

Các TCTD đóng một vai trò to lớn trong việc lưu chuyển dòng vốn trong nền kinh tế. Đây là kênh tín dụng TCTD, đảm bảo và an toàn đối với các hộ gia đình khi có nhu cầu về vốn tín dụng. Muốn nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng của các hộ gia đình

- những khoản vay tuy nhỏ nhưng tổng hợp lại chiếm tỷ trọng cao trong nền kinh tế, các TCTD cần phải tích cực hành động, đổi mới, nâng cao chất lượng dịch vụ, hỗ trợ các cơ quan quản lý trong việc tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình tiếp cận tín dụng nguồn vay này.

● Về Tài sản đảm bảo

Như đã đề cập ở trên, tài sản đảm bảo là một trong những trở ngại lớn nhất khi các hộ gia đình muốn tiếp cận các nguồn tín dụng TCTD do yêu cầu về giá trị lớn. Đây cũng là một yếu tố khiến cho tín dụng đen phát triển khi không yêu cầu tài sản thế chấp nhưng áp một mức lãi suất quá lớn, tuy nhiên lại là lựa chọn khi các hộ không thể đáp ứng điều kiện đặt ra của TCTD. Một vấn đề cốt lõi khi cần yêu cầu tài sản đảm bảo cho các khoản vay là phòng ngừa rủi ro mất vốn khi bên vay không đủ điều kiện trả nợ.

Kiến nghị một số hướng phát triển của TCTD để có thể giảm thiểu phụ thuộc vào tài sản đảm bảo cũng như giảm thiểu rủi ro cho ngân hàng:

- Nâng cao trình độ cán bộ tín dụng, yêu cầu chặt chẽ về tính xác minh của thông tin của những bộ hồ sơ yêu cầu cấp tín dụng.

- Nâng cao khả năng định giá các tài sản vô hình như quyền tác giả, quyền sở hữu trí tuệ, các tài sản hình thành trong tương lai từ khoản tín dụng hoặc các tài sản như hàng tồn kho. Việc này sẽ giúp cho các hộ gia đình dễ dàng hơn trong việc đáp ứng các yêu cầu về tài sản đảm bảo của các tổ chức tín dụng, từ đó nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng TCTD của các hộ gia đình.

- Mở rộng các loại hình tài sản đảm bảo, đặc biệt là tài sản đảm bảo vô hình (quyền sở hữu trí tuệ, bằng sáng chế,....), tài sản đảm bảo phát sinh từ khoản vay trong tương lai đồng thời nâng cao năng lực thẩm định giá trị các loại hình tài sản đảm bảo này.

- Yêu cầu khách hàng mua bảo hiểm với loại tài sản này tại doanh nghiệp mà chi nhánh chỉ định, với yêu cầu thụ hưởng thuộc về ngân hàng. Giới hạn cấp tín dụng dựa trên tài sản đảm bảo là bất động sản giảm xuống 60% do khả năng thanh khoản trên thị trường trong thời gian tới có thể giảm xuống. Đối với việc cầm cố giấy tờ có giá là các


khoản phải thu, giá trị chấp nhận nên mở rộng lên đến 95% do khả năng thanh toán của khách hàng thường cao, và cũng phù hợp hơn so với các chi nhánh của các ngân hàng khác cùng địa bàn.

- Phát triển dịch vụ cho vay theo nhóm, trong đó các hộ gia đình có thể thành lập nhóm, cùng giúp nhau đảm bảo giá trị tài sản thế chấp với các khoản vay, đồng thời san sẻ trách nhiệm trả nợ, như một hình thức bảo hiểm theo nhóm nhỏ, vừa có thể có lợi cho Ngân hàng và giúp khả năng tiếp cận tín dụng được tăng lên.

● Về thu nhập

Thu nhập là một trong những nguồn tài trợ chính cho việc hoàn trả các khoản tín dụng. Khoảng cách thu nhập là một rào cản đối với nhiều hộ gia đình mong muốn tiếp cận tín dụng để mở rộng sản xuất kinh doanh. Để hỗ trợ các chủ hộ giải quyết khó khăn, đồng thời gia tăng khách hàng, đề xuất giải pháp: Các TCTD Việt Nam nên đẩy mạnh các dịch vụ kèm theo khoản tín dụng như tiết kiệm định kỳ phục vụ tài trợ hoàn trả tín dụng. Mỗi tháng, chủ hộ sẽ được tự động tiết kiệm một số tiền nhất định phục vụ cho khoản vay, từ đây giảm áp lực, gánh nặng lãi suất định kỳ cho chủ hộ khi đã có nguồn tài trợ thường xuyên, tăng khả năng tiếp cận tín dụng đối với các hộ gia đình.

● Về khoảng cách địa lý

Các TCTD Việt Nam hiện nay tuy đã tiến hành mở rộng, xây dựng các chi nhánh trên đa dạng các địa bàn, tuy nhiên tại một số nơi điều kiện đi lại còn khó khăn, dân cư chưa đông đúc, sự hiện diện này còn thưa thớt, gây trở ngại cho việc tiếp cận tín dụng của các hộ. Ngoài ra, khoảng cách địa lý lớn cũng khiến rủi ro tăng cao do TCTD chưa thể nắm vững chính xác tình hình hoạt động của các hộ gia đình này.

Đây là một vấn đề nan giải, cần giải quyết trong lâu dài.

- Trước hết, ngân hàng nên cử cán bộ hoạt động tại các địa bàn này khi chưa thể xây dựng chi nhánh. Đem ngân hàng đến cho người dân chứ người dân không cần tự tìm đến ngân hàng. Việc này sẽ giúp các tổ chức tín dụng bám sát địa bàn hoạt động, nắm vững thông tin về các hoạt động sản xuất kinh doanh để có thể thực hiện phê duyệt tín dụng nhanh chóng, chính xác, giảm bớt rủi ro.

- Phối hợp cùng các cơ quan chức năng địa phương, nhất là các cơ quan quản lý về thương mại, tài chính, cơ quan thuế để có được thông tin rõ ràng về thu nhập cũng như các điều kiện khác, giúp cho việc tiếp cận tín dụng của các hộ được nhanh chóng và dễ dàng hơn.


- Về lâu dài, mở rộng các chi nhánh hoạt động tại những vùng này, cùng với những kiến nghị về hỗ trợ từ phía cơ quan nhà nước đã nêu phía trên, giúp cho TCTD mở rộng địa bàn hoạt động, nâng cao khả năng tiếp cận tín dụng cho các hộ gia đình.

- Ngoài ra, cần đẩy mạnh công tác quảng bá, quảng cáo về các dịch vụ tín dụng tại các địa bàn này, giúp cho các hộ có cơ hội tiếp cận và hiểu rõ hơn về loại hình dịch vụ này, từ đó tăng khả năng tiếp cận tín dụng TCTD cho các hộ. Đặc biệt là các tổ chức đoàn thể địa phương như: Hội nông dân, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ... hoạt động mạnh và có hiệu quả thì người dân sẽ dễ dàng tiếp cận được nguồn thông tin cũng như các hướng dẫn thủ tục về các dịch vụ ngân hàng hơn giúp người dân tiếp cận được với các nguồn vốn đầu tư, gắn kết với các chương trình phát triển kinh tế của địa phương.

● Về thủ tục vay vốn

Hiện nay, thủ tục vay vốn tại các TCTD Việt Nam bị đánh giá là còn khá phức tạp, gây khó khăn cho các hộ gia đình trong việc tiếp cận các khoản tín dụng TCTD. Để giải quyết vướng mắc này, các TCTD cần:

- Tinh giản thủ tục cấp tín dụng nhằm đáp ứng nhanh chóng nhu cầu của khách hàng là các hộ kinh doanh. Điểu hình như ngân hàng VPBank đã có dịch vụ có thể cấp tín dụng với thời gian chỉ 2 ngày đối với các khoản vay từ các hộ gia đình nhỏ lẻ.

- Quy trình cần được niêm yết rõ ràng tại tất cả các kênh truyền thông của TCTD đồng thời ngắn gọn, dễ nhớ, rõ ràng giúp các chủ hộ có thể dễ dàng nắm bắt và không còn tâm lý e ngại tiếp cận.

- Các sai sót trong hồ sơ cấp tín dụng cần được hỗ trợ chỉnh sửa rõ ràng, nhanh gọn, tránh trường hợp phải đi lại và chỉnh sửa nhiều lần.

- Đối với thời gian vay vốn, rút ngắn thời gian nhận hồ sơ và thẩm định xuống còn 3 ngày. Trong thời gian đó, nhân viên tiếp nhận sẽ phải thẩm định hồ sơ thu thập được trên CIC, những chỉ tiêu mà khách hàng cung cấp rồi trả lời lại cho khách hàng. Nếu được cấp tín dụng thì giải ngân trong vòng 3 ngày tiếp theo cho đối tượng thụ hưởng chứ không trực tiếp cho đối tượng vay để tránh thất thoát vốn.

● Về kinh nghiệm của các Ngân hàng thương mại

Tại Việt Nam hiện nay, hàng loạt các ngân hàng mới, với những sản phẩm “trẻ trung”, đáp ứng kịp thời và nhanh chóng những nhu cầu mới của khách hàng, bắt kịp xu hướng công nghệ thông tin đang thu hẹp lại khoảng cách về kinh nghiệm với những ngân hàng lâu đời có vốn đầu tư lớn của nhà nước. Cả hai nhóm ngân hàng này cần có biện pháp để đảm bảo tính cạnh tranh trên thị trường vốn ngày càng khốc liệt hiện nay.

Xem tất cả 226 trang.

Ngày đăng: 26/11/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí