Các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản của các ngân hàng thương mại Việt Nam - 2


Trạng thái thanh khoản ròng = cung thanh khoản – cầu thanh khoản

Nếu cung thanh khoản lớn hơn cầu thanh khoản thì ngân hàng ở trạng thái thặng dư thanh khoản và ngược lại ngân hàng ở trạng thái thâm hụt thanh khoản. Trạng thái thanh khoản cân bằng xảy ra khi cung thanh khoản bằng cầu thanh khoản tuy nhiên điều này gần như khó xảy ra trong thực tế. Thặng dư hay thiếu hụt đều diễn tả tình trạng mất cân bằng của ngân hàng. Thặng dư thanh khoản xảy ra khi nền kinh tế hoạt động kém hiệu quả, thiếu những cơ hội đầu tư và kinh doanh. Thặng dư thanh khoản cũng xảy ra khi một ngân hàng thiếu những phương pháp và khả năng tiếp cận thị trường, khách hàng. Các nguyên nhân khác gây ra thặng dư còn có: ngân hàng không khai thách hết những tài sản có khả năng sinh lời, hoặc nguồn vốn tăng trưởng quá nhanh so với quy mô hoạt động và khả năng quản lý.

Trong khi đó, thiếu hụt thanh khoản là việc ngân hàng không có đủ vốn để hoạt động. Các hậu quả của thiếu hụt thanh khoản có thể gây ra những vấn đề trầm trọng hơn cho sự tồn tại và phát triển của ngân hàng như việc mất đi những cơ hội kinh doanh, mất khách hàng, mất thị trường, làm sụt giảm lòng tin của công chúng…‌

1.2. Rủi ro thanh khoản ngân hàng thương mại

1.2.1. Khái niệm rủi ro thanh khoản ngân hàng thương mại

Trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng, thanh khoản là một thuật ngữ chuyên ngành nói về khả năng đáp ứng các nhu cầu vốn khả dụng phục vụ cho hoạt động kinh doanh tại mọi thời điểm như chi trả tiền gửi, giải ngân cho vay, thực hiện chuyển khoản thanh toán, hoàn trả các khoản đi vay, chi phí nghiệp vụ và thuế, chi trả cổ tức…Nếu một NHTM mất khả năng đáp ứng các nhu cầu này thì có thể nói NHTM đã rơi vào tình trạng khó khăn thanh toán.

Rủi ro thanh khoản là loại rủi ro xuất hiện trong trường hợp ngân hàng thiếu khả năng chi trả, không chuyển đổi kịp các loại tài sản ra tiền hoặc không có khả năng vay

mượn để đáp ứng yêu cầu của các hợp đồng thanh toán.Rủi ro thanh khoản ngân hàng liên kết với khả năng đáp ứng nghĩa vụ của ngân hàng đối với người gửi tiền ở ngân hàng họ cũng như việc chuyển tiền gửi thành tiền mặt khi cần thiết và chức năng duy trì sự cân bằng giữa dòng tiền vào và dòng tiền ra. Những dòng tiền này được quản lý dưới sự điều hành và kiểm soát của ngân hàng trung ương, nó đảm bảo tính sẵn có của cơ sở tiền tệ cần thiết để giữ vững sự phát triển của ngân hàng.

Rủi ro thanh khoản là một loại rủi ro quan trọng bậc nhất đối với các ngân hàng thương mại nói riêng và các tổ chức tài chính nói chung. Trong thực tế có không ít trường hợp, một tổ chức kinh tế có tài sản nhiều, nợ rất ít nhưng hoàn toàn có thể phá sản do yếu tố rủi ro thanh khoản của tài sản không bù đắp nổi khả năng thanh toán trong thời điểm đó. Ở mức nhẹ hơn, rủi ro này có thể gây nên khó khăn hoặc đình trệ hoạt động kinh doanh của tổ chức đó trong một thời điểm cụ thể.

Dựa vào nguồn gốc dẫn tới rủi ro thanh khoản của các NHTM, có thể phân loại rủi ro thanh khoản thành 3 nhóm:

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 42 trang tài liệu này.

Rủi ro thanh khoản xuất phát từ tài sản nợ: có thể phát sinh khi người gửi tiền rút tiền trước hạn và cả khi đến hạn nhưng NHTM không sẵn có nguồn vốn để thanh toán, chi trả. Với một lượng tiền gửi được yêu cầu rút ra lớn và đột ngột buộc các NHTM phải đi vay bổ sung trên thị trường tiền tệ, phải huy động vốn đột xuất với chi phí vượt trội, hoặc bán bớt tài sản để chuyển hóa thành vốn khả dụng đáp ứng nhu cầu chi trả. Để đáp ứng nhu cầu ngay lập tức NHTM có thể phải bán tài sản với giá thấp hơn thị trường hoặc vay với lãi suất cao để có lượng vốn khả dụng cần thiết.

Rủi ro thanh khoản xuất phát từ tài sản có: phát sinh liên quan đến việc thực hiện các cam kết tín dụng của ngân hàng đối với khách hàng. Trong trường hợp khách hàng vay yêu cầu NHTM thực hiện các cam kết tín dụng thì NH phải đảm bảo đủ thanh khoản để đáp ứng nhu cầu của khách hàng nếu không NH sẽ phải đối mặt với rủi ro.

Các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản của các ngân hàng thương mại Việt Nam - 2

7Nguyễn Đăng Dờn, Quản trị ngân hàng thương mại hiện đại, Nxb Phương Đông, 2010.

Tương tự như rủi ro xuất phát từ tài sản nợ, NHTM sẽ phải huy động thêm nguồn vốn mới với chi phí cao hoặc bán tài sản với giá thấp.

Rủi ro thanh khoản xuất phát từ hoạt động ngoại bảng: Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của các công cụ tài chính phái sinh, rủi ro thanh khoản đến từ hoạt động ngoại bảng cũng ngày càng tăng. Khi mà các nghĩa vụ thanh toán bất thường xảy ra như các cam kết bảo lãnh, nghĩa vụ thanh toán các hợp đồng kỳ hạn, hợp đồng hoán đổi hay hợp đồng quyền chọn. Các hợp đồng đó đến hạn thì sẽ phát sinh nhu cầu thanh khoản. Khi đó, NHTM có thể phải đối mặt với rủi ro thanh khoản nếu không có kế hoạch chuẩn bị nguồn thanh khoản kịp thời, không có những tài sản nhanh chóng hay dễ dàng chuyển thành tiền, những công cụ có thể giao dịch trên thị trường tiền tệ.

1.2.2. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro thanh khoản NHTM‌

Các chuyên gia trong lĩnh vực tài chính ngân hàng đã chỉ ra 5 nguyên nhân dẫn đến rủi ro trong tính thanh khoản của các ngân hàng thương mại trong thời gian qua.

- Thứ nhất: tăng trưởng tín dụng quá nóng. Sự tăng trưởng tín dụng quá nóng của các ngân hàng thương mại đi kèm với cơ cấu đầu tư không hợp lý, tập trung lớn vào đầu tư bất động sản chạy theo lợi nhuận sẽ phát sinh rủi ro cao khi thị trường đóng băng, tạo sự mất cân đối về kỳ hạn giữa tài sản có và tài sản nợ do ngân hàng đã sử dụng quá nhiều nguồn vốn ngắn hạn để cho vay dài hạn. Chính điều này đã tạo ra sự rủi ro thanh khoản cao đối với ngân hàng thương mại.

- Thứ hai: công tác dự báo và phân tích thị trường của các ngân hàng thương mại Việt Nam còn nhiều hạn chế. Các NHTM còn có tư tưởng ỷ lại quá nhiều vào cơ chế nhà nước, trong khi các ngân hàng nước ngoài, ngoài việc chấp hành nghiêm túc các tỷ lệ an toàn còn thường xuyên nghiên cứu, dự báo sát các diễn biến của thị trường nên đã dự phòng vốn thanh khoản và điều chỉnh kịp thời, không bị động trước những tác động thị trường.

- Thứ ba: tính liên kết hệ thống giữa các NHTM để đảm bảo an toàn thanh toán còn yếu, tạo sự cạnh tranh không lành mạnh, đẩy lãi suất lên cao tạo khe hở cho khách hàng gửi tiền “làm giá, tăng lãi suất” hoặc rút tiền chuyển sang các NHTM khác dẫn đến làm suy yếu khả năng chống đỡ thiếu hụt thanh khoản của hệ thống.

- Thứ tư: vấn đề quản trị thanh khoản tại các NHTM chưa tốt. Do sự yếu kém từ quản trị tài sản nợ, có của các NHTM và sự thiếu hụt của các công cụ quản lý hữu hiệu…Ngân hàng Nhà nước cũng khó nắm bắt chắc chắn tình hình thanh khoản cũng như sự thay đổi lớn trong tài sản của mỗi NHTM để điều chỉnh quy định của mình.

- Thứ năm: xuất phát từ phía khách hàng, đây được đánh giá là nhóm nguyên nhân khiến các ngân hàng khó có thể dùng công cụ thị trường để điều tiết có hiệu quả thanh khoản của các ngân hàng. Trong điều kiện thông tin bất cân xứng, lại chưa minh bạch, một số khách hàng (kể cả pháp nhân) đã rút tiền ra khỏi ngân hàng này và chuyển sang ngân hàng khác, dân cư rút tiền để mua vàng, mua đô la Mỹ để tích trữ…đã làm tăng tính bất ổn của thị trường, nội và ngoại tệ, gây khó khăn cho chính khách hàng đã và đang sử dụng dịch vụ gửi và vay tiền tại ngân hàng.

Ngoài những nguyên nhân trên, còn có nhiều nguyên nhân như: do các giao dịch bằng ngoại tệ tại các NHTM Việt Nam chủ yếu tập trung vào một loại ngoại tệ là USD; những tác động trực tiếp từ các loại rủi ro khác trong hoạt động ngân hàng cũng gây ảnh hưởng không nhỏ tới rủi ro thanh khoản; hiện tượng một số tập đoàn, Tổng công ty Nhà nước chuyển tiền hoặc rút tiền với khối lượng lớn; yếu kém trong công tác kế hoạch hóa và quản trị điều hành…

1.2.3. Ảnh hưởng của rủi ro thanh khoản

Rủi ro thanh khoản là rủi ro nguy hiểm nhất của ngân hàng, có liên quan đến sự sống còn của ngân hàng. Một ngân hàng hoạt động bình thường phải đảm bảo được khả năng thanh toán, tức là phải đáp ứng được các nhu cầu thanh toán trong hiện tại,

tương lai và các nhu cầu thanh toán đột xuất. Một khi rủi ro thanh khoản xuất hiện thì nó không chỉ ảnh hưởng đến bản thân NHTM mà còn ảnh hưởng đến cả một nền kinh tế xã hội.

1.2.3.1. Đối với hoạt động của ngân hàng thương mại

Thứ nhất, nếu rủi ro thanh khoản xảy ra, tùy mức độ nghiêm trọng, NHTM có thể phải chịu:

- Chuyển hóa các tài sản có thanh khoản thành tiền với chi phí cao.

- Tiếp cận với thị trường tiền tệ để tăng vốn với những điều kiện khắt khe hơn, ví dụ phải có tài sản thế chấp, chịu mức lãi suất cao, không được tuần hoàn nợ cũ, hạn mức tín dụng bị xem xét lại thường xuyên hoặc bị từ chối cho vay.

- Đình trệ hoạt động dẫn đến giảm thu nhập.

- Mất uy tín dẫn đến mất khách hàng đặc biệt là các khách hàng truyền thống và cơ quan quản lý.

Thứ hai, trong trường hợp đặc biệt, rủi ro thanh khoản có thể đẩy ngân hàng tới tình trạng mất khả năng thanh toán, là trạng thái bên bờ vực phá sản ngân hàng.

1.2.3.2. Đối với hệ thống tài chính quốc gia‌

Khi một ngân hàng mất đi thanh khoản, ở mức độ trầm trọng đẩy ngân hàng đến bờ vực phá sản thì nó có thể gây nên hiệu ứng lây lan, kéo theo phá sản hàng loạt các NHTM khác, đe dọa đến sự ổn định của toàn hệ thống NHTM, gây nên sự hỗn loạn dẫn đến khủng hoảng là điều không thể tránh khỏi.

1.3. Quản trị rủi ro thanh khoản

Quản trị rủi ro thanh khoản là việc quản lý có hiệu quả cấu trúc thanh khoản (tính lỏng) của tài sản và quản lý tốt cấu trúc danh mục của nguồn vốn8.

Bản chất của hoạt động quản trị rủi ro thanh khoản trong ngân hàng có thể đúc kết ở hai nội dung sau:

8PGS. TS. Trương Quang Thông, Quản trị ngân hàng thương mại, Nxb Tài chính, 2010

Một là, rất ít thời điểm tổng cung bằng với tổng cầu thanh khoản nên ngân hàng phải thường xuyên đối mặt với tình trạng thâm hụt hay thặng dư thanh khoản.

Hai là, thanh khoản và khả năng sinh lời là hai đại lượng tỷ lệ nghịch với nhau. Một tài sản có tính thanh khoản càng cao thì khả năng sinh lời của nó sẽ càng thấp và ngược lại; một nguồn vốn có tính thanh khoản cao thường có chi phí huy động lớn nên làm giảm khả năng sinh lời khi sử dụng để cho vay.

Thanh khoản mang ý nghĩa thời điểm rất lớn, theo nghĩa, một số yêu cầu thanh khoản là tức thời hoặc gần như tức thời. Chẳng hạn, một khoản tiền gửi lớn đến hạn và khách hàng không có ý định tiếp tục duy trì số vốn này tại ngân hàng; khi đó ngân hàng buộc phải tìm kiếm các nguồn vốn có thể sử dụng ngay như vay từ TCTD khác. Ngoài ra, yếu tố thời vụ, chu kỳ cũng rất quan trọng trong việc dự kiến cầu thanh khoản dài hạn. Việc kế hoạch được những yêu cầu thanh khoản này, sẽ giúp ngân hàng hoạch định được nhiều nguồn đáp ứng cầu thanh khoản dài hạn hơn là trong trường hợp đối với cầu thanh khoản ngắn hạn.

1.4. Vai trò của quản trị rủi ro thanh khoản‌

- Đảm bảo khả năng thanh khoản cho ngân hàng.

- Giúp các ngân hàng dễ dàng tiếp cận các nguồn vốn khả dụng với chi phí hợp lý và đúng lúc cần thiết.

Ngày nay, quản trị thanh khoản trở nên quan trọng hơn so với trước đây rất nhiều, bởi vì một ngân hàng có thể bị đóng cửa nếu không đáp ứng đủ nhu cầu thanh khoản mặc dù về mặt kỹ thuật, nó vẫn còn khả năng trả nợ. Hơn nữa, năng lực quản trị thanh khoản của một ngân hàng là thước đo quan trọng về tính hiệu quả tổng thể để đạt đến các mục tiêu dài hạn của ngân hàng.

1.5. Đo lường rủi ro thanh khoản‌

Thước đo rủi ro thanh khoản của các NHTM đã được nhiều tác giả trên thế giới nghiên cứu trong thời gian khá dài. Theo đó, có thể đánh giá dựa trên khả năng của ngân hàng trong việc đáp ứng nhu cầu về vốn cho hoạt động của mình. Những yếu tố cần xem xét bao gồm mức độ biến động của tiền gửi, mức độ phụ thuộc vào nguồn vốn nhạy cảm với rủi ro, khả năng sẵn có của những tài sản có thể chuyển đổi nhanh chóng thành tiền mặt, khả năng tiếp cận đến thị trường tiền tệ, mức độ hiệu quả nói chung của chiến lược, chính sách quản lý tài sản nợ và tài sản có của ngân hàng, tuân thủ với các chính sách thanh khoản nội bộ của ngân hàng, nội dung, quy mô và khả năng sử dụng dự kiến các cam kết cấp tín dụng… Tuy nhiên, rất khó có thể xây dựng một thước đo duy nhất để định lượng hay bao quát được tất cả các yếu tố về thanh khoản, mức độ đủ vốn, chất lượng tài sản có và lợi nhuận do có nhiều khác biệt về quy mô, hoạt động giữa các ngân hàng khác nhau, cũng như do ảnh hưởng của điều kiện thị trường khu vực, quốc gia và quốc tế. Không có một tỷ lệ nào thực sự bao hàm được các khía cạnh khác nhau của yếu tố thanh khoản đối với tất cả các ngân hàng với quy mô và loại hình khác nhau.

Theo Peter Rose, tác giả “Commercial Banking Management”, trong những năm gần đây, một số phương pháp đo lường rủi ro thanh khoản đã được phát triển bao gồm: Phương pháp tiếp cận nguồn và sử dụng thanh khoản; phương pháp cung cầu thanh khoản; phương pháp chỉ số thanh khoản; phương pháp khe hở tài trợ và một số phương pháp khác9. Mỗi phương pháp nêu trên đều được xây dựng trên một số giả

định là ngân hàng chỉ có thể ước lượng gần đúng mức cầu thanh khoản thực tế tại một thời điểm nhất định. Đó chính là lý do vì sao nhà quản lý thanh khoản phải luôn sẵn sàng điều chỉnh mức dự tính về yêu cầu thanh khoản mỗi khi ngân hàng nhận được thông tin mới.

9Vodová. P., (2013a), Determinants of Commercial Banks’ Liquidity in Hungary, working paper

1.5.1. Phương pháp tiếp cận nguồn thanh khoản và sử dụng thanh khoản‌

Phương pháp này dựa trên một thực tế là: khả năng thanh khoản của ngân hàng tăng khi tiền gửi tăng và cho vay giảm. Ngược lại, nó giảm khi tiền gửi giảm và cho vay tăng.

Bất cứ khi nào nguồn thanh khoản và sử dụng thanh khoản không bằng nhau, NHTM đều phải đối mặt với khe hở thanh khoản. Các bước chính trong phương pháp này gồm:

Bước 1: Ước lượng nhu cầu vay vốn và lượng tiền gửi trong giai đoạn ngân hàng ước tính trạng thái thanh khoản (giai đoạn kế hoạch)

Bước 2: Tính toán những thay đổi dự tính về cho vay và tiền gửi trong giai đoạn kế hoạch.

Bước 3: Ước lượng trạng thái thanh khoản ròng của ngân hàng bằng cách so sánh mức độ thay đổi dự tính trong cho vay và mức thay đổi dự tính trong tiền gửi.

Một công cụ hữu ích là lập báo cáo thanh khoản ròng, ghi chép thống kê tất cả luồng tiền phản ánh nguồn tạo nên thanh khoản và số tiền ngân hàng đã thực sự sử dụng để đáp ứng nhu cầu thanh khoản.

1.5.2. Đo lường rủi ro thanh khoản thông qua các chỉ số thanh khoản

Theo đó, việc sử dụng các chỉ số tài chính là một cách để ước tính yêu cầu thanh khoản dựa trên kinh nghiệm và mức bình quân ngành thông qua việc nghiên cứu dựa vào số liệu trên bảng cân đối kế toán của các NHTM. Mỗi chỉ số thể hiện một khía cạnh về năng lực thanh khoản của ngân hàng.

Chỉ số thanh khoản: được nghiên cứu bởi Jim Pierce, chỉ số này đo lường khoản thất thoát tiềm tàng khi ngân hàng phải bán ngay các tài sản của mình để đáp ứng nhu cầu thanh khoản với giá thị trường hợp lý của tài sản ngân hàng có thể bán trong điều kiện bình thường – có thể sẽ lâu hơn do ngân hàng phải đưa qua đấu giá và thực hiện

một số khảo sát, nghiên cứu. Nếu giá bán ngay càng khác biệt so với giá thị trường hợp lý của tài sản thì danh mục tài sản đó của ngân hàng càng kém thanh khoản.

Công thức đo lường chỉ số thanh khoản được xác định như sau:

i

I = ∑ [wi×(Pi/P)]

Trong đó:

I: chỉ số thanh khoản giao động từ 0-1 wi: tỷ trọng của tài sản loại i

Pi: giá bán ngay

i

P: giá thị trường hợp lý của tài sản

Ngoài ra, các chỉ số sau đây cũng thường được dùng để đo lường thanh khoản ngân hàng:

Tiền mặt + tiền gửi tại các TCTD khác

● Chỉ số trạng thái tiền mặt = x 100%

Tổng tài sản

Về mặt lý thuyết, chỉ số này càng lớn thì ngân hàng càng có khả năng thanh toán tức thời để xử lý các nhu cầu tiền mặt tức thời. Tuy nhiên, nếu chỉ tiêu này trên thực tế quá cao thì sẽ làm cho lợi nhuận của ngân hàng giảm xuống bởi vì các tài sản tiền mặt hoặc tương đương tiền thường ít đem lại lợi tức cao cho ngân hàng.

Chứng khoán thanh khoản

● Chỉ số chứng khoán thanh khoản = x 100% Tổng tài sản

Các chứng khoán thanh khoản trên bảng cân đối tài sản bao gồm các chứng khoán kinh doanh, chứng khoán đầu tư sẵn sàng để bán. Nếu chỉ tiêu chứng khoán thanh khoản càng lớn thì rủi ro thanh khoản mà ngân hàng phải đối mặt càng giảm.

Dư nợ cho vay + Cho thuê tài chính

● Chỉ số năng lực cho vay = x 100%

Tổng tài sản

Vì các khoản tín dụng và cho thuê tài chính được xem là những tài sản có tính thanh khoản kém, do đó nếu chỉ tiêu “năng lực cho vay” càng lớn thì rủi ro thanh khoản của ngân hàng càng tăng tuy nhiên lại đem lại lợi nhuận cao cho ngân hàng.

● Chỉ số dư nợ/tiền gửi khách hàng: Chỉ tiêu này thể hiện việc ngân hàng đã dử dụng bao nhiêu phần trăm tiền gửi khách hàng để cung ứng tín dụng. Chỉ tiêu này càng thấp thì khả năng thanh khoản của ngân hàng càng cao và ngược lại.

1.5.3. Phương pháp khe hở tài trợ‌

Nhà quản trị thanh khoản ngân hàng thường quan tâm đến hai khoản mục sau đây trong bảng cân đối kế toán: Số dư bình quân của những khoản kí thác lõi (Core Deposit) và số dư bình quân của những khoản tín dụng. Trong hoạt động kinh doanh ngân hàng, phần lớn tài sản sẽ được tài trợ bởi các khoản tiền kí thác trong đó đa phần là các khoản tiền gửi vãng lai có thể bị rút ra khỏi ngân hàng bất kì lúc nào, tạo ra khe hở thanh khoản cho ngân hàng, từ đó tạo ra rủi ro thanh khoản. Các khoản cho vay thông thường có tính thanh khoản thấp, do đó, những khoản rút tiền lớn và không được dự báo trước có thể dẫn đến việc mất thanh khoản của ngân hàng. Khe hở tài trợ chính là chênh lệch giữa bình quân của những khoản cho vay và bình quân của những khoản kí thác lõi.

Công thức tính khe hở tài trợ:

Khe hở tài trợ = Tổng dư nợ trung bình – Tổng nguồn vốn huy động trung bình

Đây chính là cơ sở lí thuyết để tác giả sử dụng khe hở tài trợ là biến phụ thuộc trong mô hình nghiên cứu ở phần sau.

1.6. Mô hình nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản NHTM‌‌

1.6.1. Mô hình định lượng dựa trên các chỉ số thanh khoản của NHTM

Trong bài nghiên cứu “Determinants of Commercial Bank’ Liquidity in the Czech Republic” của tác giả Vodová (2011), với mục đích xác định yếu tố quyết định rủi ro thanh khoản của các ngân hàng thương mại Cộng hòa Czech, tác giả đã sử dụng mô hình hồi quy các chỉ số thanh khoản bằng cách xem xét cụ thể ngân hàng và dữ liệu kinh tế vĩ mô trong giai đoạn 2001-2009.

Những chỉ số thanh khoản là những chỉ số trên bảng cân đối kế toán nhằm xác định các xu hướng thanh khoản chính. Những tỷ lệ này phản ánh thực tế quản trị thanh khoản tại NHTM, điều này có thể liên quan đến việc tổ chức một danh mục đầu tư tài sản có tính lỏng cao nhằm hỗ trợ thanh khoản khi có nhu cầu cần thiết (như dự trữ tiền mặt, trái phiếu chính phủ…) hay việc nắm giữ một khối lượng đáng kể các khoản nợ có tính ổn định hoặc duy trì dòng tín dụng với các tổ chức tài chính khác.

Mô hình định lượng được tác giả xây dựng như sau:

L1= Tài sản thanh khoản/ Tổng tài sản

Tỷ lệ thanh khoản L1 cung cấp cho chúng ta thông tin về năng lực hấp thụ các cú sốc thanh khoản của NHTM. Theo nguyên tắc chung, một tỷ lệ tài sản lưu động tăng lên trong tổng tài sản sẽ làm tăng khả năng chống đỡ các cú sốc về thanh khoản của ngân hàng. Tuy nhiên, một tỷ lệ cao tài sản lưu động có thể làm giảm hiệu quả hoạt động của ngân hàng, vì vậy, điều cần thiết đó là cần phải tối ưu hóa mối quan hệ giữa thanh khoản và lợi nhuận.

L2=Tài sản thanh khoản/(Tiền gửi + Nợ vay ngắn hạn)

Tỷ lệ thanh khoản L2 tập trung vào sự nhạy cảm của ngân hàng với các nguồn được lựa chọn tài trợ. Các ngân hàng có thể đáp ứng nghĩa vụ về mặt tài chính của nó (khối lượng tài sản lưu động là đủ cao để đáp ứng cho các nhu cầu không ổn định) nếu giá trị của tỷ lệ này là 100% hoặc nhiều hơn.

L3= Dư nợ/Tổng tài sản

Tỷ số L3 đo lường tỷ trọng cho vay trong tổng tài sản. Tỷ lệ này càng cao thì thanh khoản ngân hàng càng thấp.

L4= Dư nợ/ (Tiền gửi + Những khoản tài trợ ngắn hạn)

Tỷ số L4 thể hiện mối liên quan của những tài sản thanh khoản và các khoản nợ có tính lỏng. Như tỷ số L3, một sự gia tăng tỷ lệ này thì thanh khoản của ngân hàng giảm.

Bằng cách phân tích các chỉ số thanh khoản trên thông qua hồi quy dữ liệu bảng thu thập từ các NHTM Cộng Hòa Czech, tác giả đã chỉ ra những nhân tố tác động đến rủi ro thanh khoản của NHTM Cộng hòa Czech.

1.6.2. Mô hình định lượng dựa trên khe hở tài trợ

Trong bài nghiên cứu: “Các nhân tố tác động đến rủi ro thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam” của tác giả Trương Quang Thông (2013), tác giả đã sử dụng một thước đo rủi ro thanh khoản là Khe hở tài trợ. Theo mô hình nghiên ở tài trợ” được đo lường bằng cách lấy chênh lệch giữa các khoản tín dụng và huy động vốn chia cho tổng tải sản.

Tác giả đã sử dụng phương pháp định lượng với mô hình hồi quy được đề xuất cho nghiên cứu như sau:

Trong đó các biến độc lập được xác định gồm: Quy mô tổng tài sản (SIZE)

Tỉ lệ dự trữ thanh khoản trên tổng tài sản (LRA) Sự phụ thuộc các nguồn tài trợ bên ngoài (EFD) Tỉ lệ vốn tự có trên tổng nguồn vốn (ETA)

Tỉ lệ cho vay trên tổng tài sản (TLA)

Dự phòng rủi ro tín dụng trên tổng dư nợ (LLPTL) Tăng trưởng kinh tế (GDP)

Thay đổi lạm phát (INT)

KẾT LUẬN CHƯƠNG I‌

Trong chương I của đề tài, tác giả đã hệ thống hóa tổng quan về các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản của các Ngân hàng Thương mại, để từ đó giúp chúng ta có một cái nhìn khái quát về rủi ro thanh khoản và các nhân tố ảnh hưởng đến rủi ro thanh khoản mà tác giả sẽ phân tích trong phần sau. Bên cạnh đó, chương I cũng nêu khái quát về những mô hình định lượng đã được các tác giả trong và ngoài nước xây dựng, thông qua đó làm cơ sở lý luận cho mô hình phân tích của tác giả ở những chương tiếp theo.

CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN RỦI RO THANH KHOẢN CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM‌‌

2.1. Tổng quan về tình hình thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam trong những năm gần đây

2.1.1 Tổng quan về hoạt động của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam‌

Cho đến nay, hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam đã có sự phát triển khá mạnh mẽ xét cả về mặt lượng lẫn mặt chất: Nếu như đầu những năm 1990, tại Việt Nam, 4 NHTMNN chiếm gần như toàn bộ thị trường tiền gửi và cho vay ở Việt Nam thì cho đến nay, theo số liệu của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), hiện cả nước có hơn 100 ngân hàng hoạt động10. Cùng với đó là việc thành lập và hoạt động của hàng loạt công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính, quỹ tín dụng từ trung ương tới địa phương. Có thể nói, với thời gian trên 20 năm thực hiện quá trình đổi mới kinh tế, hệ

thống ngân hàng và định chế phi ngân hàng đã có sự phát triển vượt bậc, đóng góp những vai trò to lớn đối với những thành tựu về kinh tế - xã hội nước ta những năm qua. Bên cạnh các tổ chức tín dụng còn có sự hiện diện và ngày càng phát triển của các TCTD phi ngân hàng. Số lượng các định chế tài chính phi ngân hàng hoạt động trên thị trường Việt Nam thường xuyên thay đổi theo thời gian, và đã có sự tăng lên đáng kể so với đầu những năm 2000. Các định chế tài chính này đã và đang có sự cạnh tranh khá quyết liệt với các NHTM trong một số lĩnh vực dịch vụ ngân hàng truyền thống. Một thực tế là sự cạnh tranh giữa các định chế tài chính trong lĩnh vực huy động vốn và cho vay diễn ra rất quyết liệt, khiến môi trường tín dụng trong nhiều giai đoạn là rất bất ổn.

10 www.vneconomy.vn

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 08/04/2022