Giải Pháp Từ Chính Phủ Và Ngân Hàng Nhà Nước


CTG,…Các NHTMCP có quy mô tiềm lực mạnh như ACB, SGTT trước hết nên mở văn phòng đại diện ở nước ngoài để xúc tiến, hổ trợ các hoạt động ngân hàng, hoạt động thanh toán quốc tế; nghiên cứu thăm dò thị trường để dần từng bước tiến đến mở chi nhánh hoạt động ở nước ngoài. Cụ thể Lộ trình thực hiện từ năm 2012- 2015 tiến hành mở văn phòng đại diện, từ năm 2015 nên mở Chi nhánh NH hoạt động ở nước ngoài.

3.1.4. Hiện đại hoá công nghệ, đa dạng hoá và nâng cao tiện ích các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại dựa trên công nghệ kỹ thuật tiên tiến.

Sau khi gia nhập WTO, các ngân hàng Việt Nam phải đối mặt với nhiều thách thức từ phía các ngân hàng nước ngoài khi họ có nhiều lợi thế về công nghệ và dịch vụ ngân hàng. Một loạt các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng hiện đại vốn đã được phổ biến và kiểm chứng trên nhiều quốc gia khác nhau sẽ được tung ra trên thị trường Việt Nam cho khách hàng sử dụng (ví dụ như các ngân hàng của Mỹ, Nhật và Singapore). Những lợi thế tạm thời của các ngân hàng Việt Nam sẽ dần mất đi. Điều này đòi hỏi các ngân hàng Việt Nam phải sớm tiến hành thực hiện việc hiện đại hoá, nhanh chóng đưa ra những sản phẩm dịch vụ ngân hàng hiện đại, nhất là hệ thống thông tin quản lý cho toàn hệ thống ngân hàng phục vụ công tác điều hành hoạt động kinh doanh, kiểm soát hoạt động ngân hàng, quản lý vốn tài sản, quản lý rủi ro, quản lý công nợ và công tác kế toán, hệ thống thanh toán liên ngân hàng, hệ thống giao dịch điện tử và giám sát từ xa... nhằm nâng cao chất lượng phục vụ cho khách hàng. Kinh nghiệm thế giới cho thấy, các ngân hàng hiện đại muốn duy trì được hệ thống hạ tầng cơ sở và ứng dụng công nghệ thông tin để phục vụ cho các hoạt động của mình thì hàng năm họ phải đầu tư vào công nghệ là khoảng từ 3% - 5% tổng doanh thu hoạt động của ngân hàng.

Kết quả từ mô hình hồi quy cho thấy mối tương quan âm giữa chi phí hoạt động/thu nhập từ hoạt động và hiệu quả sinh lời trong hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam. Nguyên nhân là do nhiều ngân hàng mặc dù đã triển khai các phần mềm hiện đại với chức năng hoạt động trực tuyến (Online), tạo thêm nhiều sản phẩm gia tăng cho khách hàng trong quá trình giao dịch với ngân hàng; các phần


mềm mà một số NHTM đang ứng dụng đều là những phần mềm thế hệ mới được nhiều ngân hàng trên thế giới đang sử dụng. Tuy nhiên, công tác triển khai chậm và khi triển khai xong, một số bộ phận lại chưa tạo được một cơ chế nhằm khai thác hiệu quả công nghệ đó và đặc biệt là nguồn nhân lực của các ngân hàng chưa hoàn toàn làm chủ được những công nghệ mới này đã làm cho việc khai thác các hệ thống công nghệ thông tin thiếu hiệu quả. Như vậy, để tăng hiệu quả hoạt động của mình, trong thời gian tới các NHTM cần thực hiện hợp tác, xây dựng đối tác chiến lược nhằm hỗ trợ phát triển và khai thác cơ sở hạ tầng công nghệ của nhau nhằm giảm chi phí đầu tư, chi phí quản lý nâng cao hiệu quả sử dụng hạ tầng cơ sở hiện có đặc biệt là trong việc cung cấp các dịch vụ về thẻ nội địa để dần dần có lãi từ những hoạt động này.

Bên cạnh sự đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng công nghệ về phần cứng cần lưu ý lựa chọn các phần mềm có khả năng mở rộng các ứng dụng dịch vụ.

Các NHTM cần tập trung đầu tư nâng cấp hệ thống thông tin quản lý (MIS) phục vụcho công tác điều hành kinh doanh, kiểm soát hoạt động ngân hàng quản lý khách hàng,quản lý rủi ro, quản lý tài sản nợ - có và công tác kế toán.

Để triển khai chương trình phát triển công nghệ, các NHTM cần rà soát lại các quy định, quy chế, tiêu chí thống kê kế toán bất hợp lý đang cản trở việc ứng dụng công nghệ hiện đại trình NHNN xem xét, sửa đổi trong thời gian tới.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 110 trang tài liệu này.

Như vậy, nếu các ngân hàng thương mại làm tốt được những việc như trên sẽ giúp các ngân hàng thương mại có thể nâng cao hoạt động của mình, đặc biệt là đối với các ngân hàng đang đối mặt với hiệu suất giảm theo quy mô, họ có thể phá vỡ được quy luật này, và dần dần có thể tăng thị phần thị trường, nâng cao hiệu quả hoạt động và khả năng cạnh trong thời kỳ hội nhập.

3.1.5. Nâng cao năng lực quản trị nhân viên:

Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính trong hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam - 11


Một trong những chi phí luôn chiếm tỷ lệ lớn của NH là chi phí nhân viên. Do đó, về chi phí tiền lương, các NH nên có sự bố trí và sắp xếp nhân sự cùng mức lương một cách hợp lý. Các NH nên cân nhắc lại, không thực hiện tuyển thêm nhân sự


3.1.6. Nâng cao năng lực tài chính:‌


Các NHTM cần tăng dần năng lực tài chính để đạt đến mức hiệu quả quy mô cao hơn. Kết quả của mô hình hồi quy cho quy mô tổng tài sản có tương quan dương đến hiệu quả sinh lời trong hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam, chính điều này gợi lên các giải pháp nâng cao năng lực tài chính: tăng vốn để mở rộng quy mô hoạt động và cơ cấu lại thành phần vốn để lành mạnh hóa tình hình tài chính và nâng cao hiệu quả hoạt động, bù đắp rủi ro để tiếp tục hoạt động một cách hiệu quả, tiếp tục khẩn trương tăng vốn điều lệ và sử lý dứt điểm nợ tồn đọng nhằm lành mạnh hoá tình hình tài chính, nâng cao khả năng cạnh tranh và chống rủi ro. Tăng quy mô kinh doanh và doanh thu từ các khối kinh doanh như khối nguồn vốn, khối kinh doanh ngoại hối, từ công ty trực thuộc. Đối với các NHTM nhà nước, bổ sung thêm vốn nhưng không phải chỉ trông chờ vào ngân sách nhà nước mà phải thực hiện cổ phần hóa. Trong quá trình thực hiện cổ phần hóa phải đảm bảo nhà nước giữ phần lớn cổ phần nhằm xây dựng hệ thống NHTM nhà nước thật sự là lực lượng chủ lực, chủ đạo trong lĩnh vực NH, là điểm tựa vững chắc cho sự phát triển của hệ thống tài chính Việt Nam trong thời buổi hệ thống NH cổ phần tồn tại nhiều yếu kém hiện nay. Đối với các NHTM cổ phần cần tiếp tục tăng tổng tài sản để nâng cao hiệu quả hoạt động, trừ trường hợp các NH yếu kém không có khả năng nâng cao năng lực tài chính thì sẽ thông qua hợp nhất, sáp nhập hoặc thu hồi giấy phép hoạt động. Giải pháp này giảm thiểu số lượng NH kém chất lượng, lọc ra các


NH thật sự khỏe mạnh và tạo cho hệ thống NH hiệu quả hoạt động tốt và năng lực cạnh tranh cao hơn.

Nghiên cứu và xem xét tiến hành sát nhập các NHTM để trở thành một NH có đủ tiềm lực về tài chính có thể cạnh tranh với các NH trong khu vực và trên thế giới. Việc chia nhỏ nguồn vốn của thành nhiều NH làm cho hoạt động không hiệu quả bởi chi phí cho công tác và điều hành chi phí quản lý quá cao. Sáp nhập sẽ tạo nên quy mô về vốn lớn hơn đồng thời giảm được chi phí điều hành, quản lý và hơn hết là tạo nên phương thức quản lý mới là cơ hội để sử dụng vốn có hiệu quả. Đẩy mạnh liên doanh liên kết trong hệ thống NH để tận dụng vốn và kỹ thuật cũng như trình độ quản lý từ các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới. Ngoài ra có thể tăng vốn điều lệ thông qua sát nhập, phát hành bổ sung cổ phiếu; đối với những NHTM hoạt động quá yếu kém, không thể tăng vốn điều lệ và không khắc phục được những yếu kém về tài chính thì có thể thu hồi giấy phép hoạt động.

Tăng vốn thông qua thị trường chứng khoán: Đây là giải pháp có khả năng thực hiện trong nền kinh tế thị trường, cho phép các NHTMCP tăng vốn điều lệ thuận lợi và nhanh chóng hơn so với các giải pháp khác. Theo đó, NHTMCP thực hiện niêm yết và phát hành cổ phiếu trên thị trường chứng khoán. Muốn thực hiện niêm yết và phát hành cổ phiếu trên thị trường chứng khoán các NH phải có tình hình tài chính lành mạnh, minh bạch.

Đẩy mạnh liên doanh liên kết trong hệ thống ngân hàng để tận dụng vốn và kỹ thuật cũng như trình độ quản lý từ các nước tiên tiến trong khu vực và thế giới. Tuy nhiên, khi lựa chọn các đối tác chiến lược các ngân hàng thương mại cần phải cân nhắc kỹ, bởi vì có những đối tác họ chỉ đơn thuần vì mục tiêu hưởng cổ tức hoặc lợi nhuận từ chênh lệch giá vốn trên thị trường.

3.1.7. Nâng cao năng lực huy động:


Qua kết quả nghiên cứu, ta thấy tỷ lệ cấp tín dụng trên nguồn vốn huy động tác động ngược hiều đến tỷ suất sinh lời của NH. Vì vậy, trong ngắn hạn NH cần chú ý đến tỉ lệ tổng dư nợ cho vay/huy động, quan tâm sự biến động của tiền gửi.


Tinh thần của NH Nhà nước là từng bước giảm dần LDR, tránh để quá cao có thể dẫn tới những rủi ro. Dĩ nhiên, ngoài khả năng phải hạn chế tín dụng, để co tỷ lệ LDR lại thì các NH có thể nới rộng mẫu số là gia tăng được vốn huy động. Nhưng giải pháp này cũng khó, bởi cạnh tranh huy động luôn quyết liệt. Chưa hết, LDR của các NH nói chung và khối quốc doanh nói riêng còn đứng trước một áp lực nữa: Thông tư 21 do NHNN ban hành chuyển tiền gửi trên liên NH thành cho vay. Tiền gửi tại các tổ chức tín dụng như trước đây (ngoài tiền gửi thanh toán) bị chuyển thành cho vay, được xem là dư nợ và phải trích lập dự phòng đã đẩy LDR lên cao hơn nữa.

Để tăng nguồn vốn huy động, NH cần Đa dạng hóa các hình thức huy động vốn của NHTM kết hợp với đổi mới công nghệ thanh toán với những dịch vụ mới như Internet Banking, phone Banking… ,cải tiến chính sách lãi suất đa dạng tương ứng với những hình thức huy động, cho phép chuyển đổi dễ dàng giữa những hình thức huy động. Bên cạnh đó để đẩy mạnh tín dụng cần tạo quy trình cung cấp linh hoạt sản phẩm của NH, đặc biệt với khách hàng tiềm năng có thể đưa ra điều kiện cho vay và lãi suất ưu đãi hơn theo thoả thuận giữa hai bên.

Trong điều kiện thị trường Việt Nam hiện nay, khi các NHTM đã và đang còn cung ứng cho khách hàng các sản phẩm “tiền gửi có kì hạn, được rút gốc trước hạn, hưởng lãi suất cao”, cạnh tranh thu hút tiền gửi với nhiều hình thức tinh vi vẫn diễn ra khá phức tạp nên độ ổn định của nguồn vốn tiền gửi nói chung, tiền gửi kì hạn nói riêng sẽ thấp; đồng thời, việc thanh lí hoặc mua bán, chứng khoán hóa các khoản cho vay cũ là không dễ dàng. Do đó, để đảm bảo an toàn khả năng thanh khoản NH có thể nâng cao nguồn vốn huy động thông qua một số giải pháp cụ thể:

- Hiện nay ở các huyện sâu xa của tỉnh thì điều kiện đường xá vẫn chưa thuận tiện nên những khách hàng có nhu cầu vẫn rất ngại khi phải đi một quãng đường khá xa để đến NH gửi tiền tiết kiệm (nguồn vốn nhàn rỗi trong trong khu vực dân cư này cũng rất lớn). Vì vậy thay vì khách hàng tìm đến NH thì NH cũng nên chủ động tiềm đến với khách hàng, đi trước các đối thủ cạnh tranh để tạo mối quan hệ tốt đẹp với khách h àng trước bằng cách mở thêm các phòng giao dịch phục


vụ cho các khách hàng địa phương ở các điểm chốt. Đây là thị trường tiềm năng về vốn rất lớn vì hiện nay nông thôn có nhiều hộ làm ăn rất có hiệu quả, nhưng họ không biết làm gì chỉ biết cất giữ hoặc mua vàng để dành. Tăng cường các địa điểm giao dịch tại các siêu thị, khu mua sắm, khu dân cư đông đúc. Đặc biệt có thể tăng cường 1 vài điểm giao dịch vào ngày thứ 7 và chủ nhật, giao dịch ngoài giờ để phục vụ nhóm khách hàng không có thời gian giao dịch vào các giờ hành chính.

- Mở rộng và đa dạng thêm nhiều dịch vụ huy động vốn nhằm khuyến khích người dân đến gửi tiền tiết kiệm nhiều hơn, nhằm cạnh tranh với các NH và các tổ chức phi NH khác. Ví dụ như: nhận tiền gửi tiết kiệm bằng vàng, tiết kiệm nhà ở hay các tài sản có giá trị,… Hiện nay người dân có nhu cầu mua nhà ở hay các tài sản có giá trị lớn nhưng tình hình tài chính lại hạn hẹp. Các loại huy động tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm tích lũy: Hình thức này là NH mở tiết kiệm cho có kỳ hạn cho khách hàng tùy theo số tiền mà khách hàng có được, sau này nếu có thêm tiền thì khách hàng có thể nhập vào số tiền tiết kiệm đã có với số tiền tiết kiệm lớn nhỏ tùy ý và tùy vào điều kiện của khách hàng.

- Lãi suất huy động phải thật sự hấp dẫn người dân, luôn giữ nó ở mức tương đối ổn định, không nên thay đổi nhiều lần trong năm để người dân yên tâm gửi tiền vào NH. Áp dụng lãi suất bậc thang, khách hàng gửi tiền vào NH càng lớn thì lãi suất càng cao.

- Cần mở rộng công tác tuyên truyền huy động vốn để người dân biết được về lãi suất, cũng như hình thức huy động vốn đa dạng của NH nhằm thu hút được ngày càng nhiều khách hàng.

- Mỗi khách hàng quan hệ với NH, NH nên tiếp xúc với khách hàng ở cả hai lĩnh vực huy động vốn và cho vay vốn, để khi khách hàng làm ăn tốt có lợi nhuận sẽ giữ tiền của họ tại NH.

- Đơn giản các thủ tục, phục vụ nhanh chóng, thuận tiện. Cải tiến qui trình làm việc đơn giản, nhanh gọn nhằm tạo điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng khi đến giao dịch tại NH.


- Phát triển nhiều sản phẩm với công nghệ hiện đại như chuyển tiền, gửi tiền trực tuyến cho các đối tượng là các nhân viên văn phòng.

Ngoài ra, mỗi NH cần thành lập Hội đồng ALCO, Ban điều hành ngân quỹ, Phòng Quản lý rủi ro tùy theo phân cấp có trách nhiệm đưa ra những đánh giá định tính, định lượng thanh khoản, xây dựng hoàn thiện khung quản lý rủi ro thanh khoản và giám sát rủi ro thanh khoản, đẩy mạnh công tác báo cáo thống kê, đảm bảo chính xác số liệu báo cáo. Các NH tổng hợp và phân tích động thái của khách hàng gửi tiền, xây dựng kế hoạch sử dụng vốn cho hoạt động tín dụng và các hoạt động có rủi ro vốn. Phối hợp nhịp nhàng và đồng bộ giữa quản trị rủi ro tín dụng – quản trị rủi ro thanh khoản trong quản trị tài sản Nợ – Có.

3.2. Giải pháp từ Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước


3.2.1. Giải pháp đối với nợ xấu:


Theo như kết quả từ mô hình, nợ xấu là yếu tố ảnh hưởng hiệu quả sinh lời nhiều nhất, và là ảnh hưởng tiêu cực. Do đó, giải pháp đầu tiên để tăng hiệu quả sinh lới là giảm tỷ lệ nợ xấu. Muốn vậy, NHNN cần thành lập công ty tư nhân mua bán nợ xấu và quản lý tài sản để xử lý nợ xấu của các NHTM đồng thời cũng giải quyết nợ xấu của các doanh nghiệp. Bởi nếu công ty mua bán nợ xấu thuộc quyền quản lý của NHNN thì hiệu quả hoạt động sẽ khó có thể bằng công ty tư nhân, tính thanh khoản của các khoản tài sản mua vào cũng sẽ thấp hơn và còn có thể tạo ra các tiêu cực nếu không quản lý tốt, càng làm trì trệ thêm quá trình giải quyết nợ xấu. Tuy nhiên việc thành lập các công ty mua bán nợ xấu cũng cần phải lưu ý những điều kiện ràng buộc rò ràng về việc thành lập và việc mua bán nợ bởi vì nó cũng có thể là con dao hai lưỡi, nếu các NH tự thành lập công ty mua bán nợ và tự mua bán nợ của bản thân NH thì điều này cũng không giải quyết được vấn đề. Thực tế hiện nay Việt Nam có hai loại công ty mua bán nợ xấu của Bộ tài chính (công ty DATC) và của NHTM (AMC). Nhưng DATC có số vốn điều lệ hạn chế, nên hoạt động lâu nay chủ yếu mua bán nợ một số NHTM trong lần tái cơ cấu thứ nhất giai đoạn 2001–2004. Còn AMC ngoài mua bán nợ còn có một số nghiệp vụ repo tài sản


như là hoạt động tín dụng. Cho nên hoạt động mua bán nợ của AMC dành cho NHTM đó rất hạn chế. Vì vậy để thành lập công ty mua bán nợ thuộc quyền quản lý nhà nước hiệu quả thì cần phải có cơ chế quản lý thật chặt chẽ. Chính phủ và NHNN nên thành lập ngay một công ty chuyên nghiệp về định giá nợ xấu, và thực hiện quá trình tái cấu trúc doanh nghiệp để thu hồi lại các khoản nợ xấu này trong tương lai. Tốt nhất, Chính phủ nên mời các chuyên gia nước ngoài đã có kinh nghiệm xử lý nợ xấu NH tại các quốc gia như Hàn Quốc, Thái Lan, Indonesia... tham gia thực hiện quá trình xử lý nợ này.

NHNN cũng cho phép các NHTM trao đổi các khoản nợ xấu với trái phiếu chính phủ. Hoặc góp vốn mua lại cổ phần, tham gia vào quản trị điều hành các NHTM, sau đó sẽ bán lại cho khối tư nhân khi tình hình đã được cải thiện. Và để tránh làm gia tăng nợ công và lạm phát thì nguồn trái phiếu đặc biệt này nên được đảm bảo bằng cắt giảm chi tiêu thường xuyên. Cuối cùng có thể sử dụng đến nguồn vốn nước ngoài, đi kèm với đó là những quyền lợi ưu đãi của nhà đầu tư nước ngoài mà Chính phủ đưa ra. Với những nhà đầu tư này, sau khi thực hiện cơ cấu lại nợ xấu, có thể cho họ quyền ưu đãi mua cổ phần của các NH, của doanh nghiệp.

Các biện pháp này là vấn đề trước mắt để giải quyết thực trạng hiện nay của hệ thống NHTM. Tuy nhiên nếu xét về lâu dài cũng cần nhìn nhận vấn đề này theo một chiều hướng khác, bởi nếu cứ khi nào mà NH lâm vào khủng hoảng, có nợ xấu thì NHNN đứng ra gánh các khoản nợ xấu này cho NH thì điều này sẽ góp phần vào thâm hụt ngân sách và có thể sẽ tạo ra một tư tưởng ỷ lại, khiến cho các NH tăng cường cho vay một cách không kiểm soát chặt chẽ và rồi lại xảy ra khủng hoảng tương tự, giống như một vòng tuần hoàn. Vì vậy để hướng đến lâu dài thì Chính phủ đồng thời phải tiến hành ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để điều chỉnh lại toàn bộ hoạt động của các NHTM được tái cấu trúc, nâng cao trình độ công nghệ, quản trị, nhân lực cho các NH này, đồng thời thực hiện kiểm tra, giám sát chặt chẽ, tính công khai và minh bạch về nợ xấu những chuẩn mực về an toàn tài chính cần được đảm bảo và công bố thường xuyên. Các cơ quan quản lý, cơ quan giám sát phải được tiếp cần với các thông tin đó một cách đầy đủ, chính xác và kịp

Xem tất cả 110 trang.

Ngày đăng: 03/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí