Giải Pháp Nâng Cao Hiệu Quả Sinh Lời Trong Hoạt‌


NHTM có mức vốn điều lệ lớn nhất hiện nay là NH Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (21 ngàn tỷ đồng tương đương 1 tỉ USD).

Cơ cấu tài sản của hệ thống NH diễn biến theo chiều hướng xấu đi, khi mà hoạt động lòi của các NH - huy động vốn tạm thời nhàn rỗi từ các tổ chức kinh tế và dân cư để cho vay ra nền kinh tế, ngày càng chiếm tỉ trọng giảm dần tương ứng so tổng nguồn vốn và tổng tài sản. Nguồn vốn của nhiều NH giờ đây phụ thuộc nặng nề hơn vào thị trường liên NH và các nguồn vay mượn khác (từ nước ngoài, từ NHNN,…). Hệ số đòn bẩy tài chính gia tăng những năm gần đây cũng chỉ ra quy mô vốn chủ sở hữu đang giảm sút tương đối so tổng tài sản. Bên vế sử dụng vốn, tỷ trọng đầu tư vốn trên thị trường 2147, đầu tư giấy tờ có giá, góp vốn, mua cổ phần cũng tăng đáng kể qua các năm. Điều này cho thấy cần có các quy định nhằm tách bạch giữa hai hoạt động NHTM và NH đầu tư, khi mà trình độ quản lý của các cơ quan điều tiết và giám sát thường không theo kịp thị trường.

Chất lượng tài sản thấp, nợ xấu lớn và có chiều hướng tăng như trên đã trình bày, đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế trong ít nhất 2 năm tới chính sách tiền tệ, tài khóa tiếp tục chặt chẽ, tăng trưởng kinh tế chậm lại, sản xuất kinh doanh khó khăn, thực hiện cơ cấu lại hệ thống doanh nghiệp, thị trường bất động sản còn tiếp tục điều chỉnh giảm và khó phục hồi nhanh. Do đó, mức độ an toàn của hệ thống NH Việt Nam hết sức yếu và dễ đổ vỡ trước tác động bất lợi, đột ngột từ môi trường kinh doanh. Các NHViệt Nam rất dễ bị mất khả năng chi trả trên diện rộng dẫn đến khủng hoảng hệ thống do một số nguyên nhân: Tỷ lệ LDR khá cao cho thấy tăng trưởng tín dụng qua nhanh và nhanh hơn huy động vốn trong một thời gian kéo dài làm cho bộ phận NH phụ thuộc vào nguồn vốn từ NHNN và huy động vốn từ thị trường liên NH để tài trợ thanh khoản thiếu hụt hoặc tạo nguồn mở rộng tín dụng. Ngoài ra, một khối lượng vốn không nhỏ chảy lòng vòng trên thị trường liên NH tạo ra sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các NH; Rủi ro hệ thống rất lớn khi có thị trường biến động đột ngột; Thị trường hình thành một nhóm NH chuyên đầu tư, cho vay NHkhác để kiếm lời và một bộ phận NHphụ thuộc vào nguồn vốn của thị trường liên NH.


2.3.3. Nguyên nhân:‌

Mô hình tổ chức hiện nay của hầu hết các NHTM VN được tổ chức theo kiểu truyền thống đó là căn cứ vào loại hình nghiệp vụ để phân định chức năng các phòng, ban. Trong khi ở các NH tiên tiến, các hoạt động hướng tới khách hàng của họ lại được phân theo tiêu thức đối tượng khách hàng - sản phẩm nhằm đáp ứng tốt hơn các yêu cầu của khách hàng và nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. Trong điều kiện các NHTM hoạt động với quy mô nhỏ, tính chất đơn giản như hiện nay thì mô hình trên vẫn tỏ ra phù hợp với mức độ tập trung quyền lực cao. Song khi NH phát tri ển với quy mô ngày càng lớn, với số lượng chi nhánh ngày càng mở rộng, khối lượng và tính chất công việc ngày càng nhiều và phức tạp thì mô hình trên sẽ bộc lộ những điểm bất hợp lý.

Môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh nói chung của Việt Nam và nói riêng cho hoạt động của NHTM chưa hoàn thiện. Bởi vậy, trong điều kiện toàn cầu hoá và nền kinh tế thế giới có nhiều biến động như hiện nay, đã làm cho rủi ro của các doanh nghiệp ngày càng gia tăng và hệ thống NHTM Việt Nam cũng không nằm ngoài bối cảnh này. Hiệu quả hoạt động NH phản ánh hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp, của nền kinh tế: sự thành đạt của khách hàng là sự thành đạt của NH. Điều này đồng nghĩa với rủi ro của NHTM tăng lên gấp bội do tính bất ổn định, khó dự đoán của thị trường và tính lan truyền rủi ro của thời đại công nghệ thông tin.

Hơn nữa sự yếu kém của hệ thống NH Việt Nam còn xuất phát từ những yếu kém nảy sinh trong hoạt động của hệ thống NHTM như: tiềm lực về vốn còn yếu, công nghệ và tổ chức NH lạc hậu, trình độ quản lý thấp...Cơ sở hạ tầng công nghệ và kỹ thuật còn nhiều hạn chế, đặc biệt là hệ thống công nghệ thông tin và viễn thông quốc gia đã có những ảnh hưởng khá nhiều đến hiệu quả hoạt động của hệ thống NH ở Việt Nam.

Các công cụ và cách thức quản lý điều hành của NHTM VN còn chưa theo kịp với yêu cầu của NHTM hiện đại. Chiến lược kinh doanh của các NHTM VN hiện tập trung chủ yếu đầu tư theo chiều rộng chứ không phải chất lượng theo tiêu

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 110 trang tài liệu này.


chuẩn quốc tế. Chính điều này đã dẫn đến hiện tượng tăng tỷ lợ nợ xấu cao trong thời gian vừa qua.

Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả tài chính trong hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam - 10

Hệ thống thông tin, theo dòi nợ, quản lý rủi ro không kịp thời chính xác, dẫn tới sự thiếu minh bạch trong hoạt động tài chính NH. Các NHTM VN chủ yếu vẫn coi tài sản thế chấp là cơ sở đảm bảo tiền cho vay, kể cả đối với tín dụng ngắn hạn. Các NH còn xem nhẹ bảo đảm theo dự án, trong khi việc xử lý tài sản thế chấp để thu hồi nợ là vấn đề khó khăn do vướng mắc về mặt pháp lý, vì vậy khó thu hồi được vốn vay. Khả năng chi trả của các NHTM VN rất thấp (tỷ lệ giữa tài sản Có có thể thanh toán và tài sản Nợ phải thanh toán ngay của nhiều NHTM VN thường nhỏ hơn 1, thấp xa so với tỷ lệ này ở các nước trong khu vực và thế giới).


KẾT LUẬN CHƯƠNG 2

Trong Chương 2, luận văn đã thực hiện phân tích, đánh giá thực trạng hiệu quả sinh lời cùng các nhân tố ảnh hưởng của các NHTM Việt Nam giai đọan 2008-2012. Giới thiệu sơ lược về sự hình thành và phát triển của hệ thống NHTM Việt Nam, bối cảnh kinh tế và Phân tích, đánh giá tổng quát các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sinh lới cũng như những nhân tố ảnh hưởng đến các chỉ tiêu trên. Luận văn cũng đưa ra mô hình nghiên cứu hồi quy nhằm làm sàng rò hơn sự tác động của các nhân tố đến hiệu quả sinh lời của NHTM. Thông qua đó, luận văn đánh giá những điều các NHTM Việt Nam đã và chưa làm được, tìm hiểu nguyên nhân để làm cơ sở khoa học thực tiễn cho hệ thống giải pháp, kiến nghị và đề xuất nhằm nâng cao hiệu quả sinh lời trong hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam ở chương 3.


Chương 3. GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ SINH LỜI TRONG HOẠT‌

ĐỘNG KINH DOANH CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM

3.1. Giải pháp từ phía ngân hàng thương mại:


3.1.1. Ngăn ngừa rủi ro tín dụng:


Nợ xấu trong thời gian qua đã có tác động tiêu cực không nhỏ đến hiệu quả hoạt động NH. Giải pháp trước mắt để xử lý nợ là thực hiện bán nợ cho các công ty mua bán nợ. Đối với các khoản nợ xấu của doanh nghiệp nhà nước (kể cả nợ cho vay theo chỉ định, kế hoạch nhà nước), NHTM quốc doanh chuyển sang công ty mua bán nợ và tài sản tồn đọng - Bộ tài chính (DATC) để tiếp tục theo dòi xử lý theo thẩm quyền. Đối với các khoản nợ xấu của các doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân khác, NHTM quốc doanh được phép bán nợ cho DATC hoặc các doanh nghiệp, cá nhân có đủ khả năng về tài chính kể cả tổ chức, cá nhân nước ngoài thông qua tổ chức đấu giá công khai. Đối với các khoản nợ xấu theo chỉ định, hoặc các chương trình kế hoạch của nhà nước như mía đường, cà phê, đánh bắt xa bờ…NHTM có thể thoả thuận để bán nợ cho DTAC, quỹ hỗ trợ phát triển, NH chính sách, hoặc các doanh nghiệp, cá nhân có chức năng mua bán nợ. Đối với những khoản nợ xấu của các doanh nghiệp mà NH không chuyển giao được cho công ty mua bán nợ và tổ chức, cá nhân khác, nhà nước cần có cơ chế để NH có thể chủ động áp dụng các biện pháp cơ cấu lại tài chính và hoạt động của doanh nghiệp.

Ngoài ra, nợ xấu có thể được xử lý thông qua các giải pháp kinh tế như sử dụng ngân sách hoặc các giải pháp để xóa nợ, Chuyển đổi các khoản nợ kỳ hạn ngắn sang kỳ hạn dài, vẫn tiếp tục cho vay mà tài sản đảm bảo là bất động sản, nhằm tăng vòng quay vốn, tạo điều kiện cho các DN có thể trả lãi và vốn được. Tuy nhiên việc thực hiện này chẳng khác nào xử lý phần nổi của tảng băng. Xong phần nổi, phần chìm lại nổi lên và hệ thống vẫn tiếp tục yếu kém. Thiết nghĩ, phải nắm được gốc của vấn đề, rồi xử lý từ đó thì mới có thể dứt điểm được.

Nguyên nhân từ phía NH là do hoạt động kiểm soát rủi ro có quá nhiều bất cập, chính sách quản lý hệ thống NH còn nhiều lỏng lẻo, minh bạch trong hoạt động


kinh doanh và đạo đức nghề nghiệp của một bộ phận cán bộ NH – những người chịu trách nhiệm chính trong việc cho vay – suy giảm nghiêm trọng. Do vậy, xóa bỏ cách tổ chức cũ là một nhân viên tín dụng thường kiêm luôn các khâu tiếp xúc và thẩm định khách hàng chuyển sang chuyên môn hóa nghiệp vụ, phân tách các chức năng định giá tài sản, thẩm định và tiếp xúc khách hàng thành các bộ phận độc lập để giảm thiểu rủi ro đạo đức trong hoạt động tín dụng.

NH chủ nợ cùng ngồi lại giúp DN khách hàng của mình thoát khỏi cảnh phá sản. Thay vì tiến hành phát mãi tài sản của khách hàng để thu hồi vốn các NH có thể thỏa thuận gia hạn thêm thời hạn trả nợ, tái cơ cấu các món vay hoặc tìm một nhà đầu tư chấp nhận mua lại toàn bộ DN này. Khi DN khách hàng lâm vào cảnh khó khăn về tài chính thì các NH liên quan có thể cùng làm việc với nhau thuê một công ty tư vấn độc lập bên ngoài để giúp giải quyết vấn đề này. Bên thứ ba sẽ đánh giá lại khả năng tồn tại trong dài hạn của DN, phát triển kế hoạch tái cấu trúc, phát triển các dự án đáng tin cậy và trực tiếp thương lượng với các bên cho vay. Điểm mấu chốt để thực hiện được phương án này là các bên cho vay phải cùng đồng thuận cho DN khách hàng tiếp tục hoạt động, không theo đuổi DN một cách riêng lẻ để đòi nợ. Các NH cho vay phải thống nhất cách xử lý vấn đề. Có thể xem đây là phương án khá hiệu quả để xử lý nợ xấu trong tình hình hiện nay của Việt Nam khi nợ xấu như một “cục máu đông” ngăn cản sự tuần hoàn của dòng vốn, khiến cho các DN không thể tiếp cận với vốn vì NH còn e ngại nợ xấu nên không dám cho vay. Với phương án này thì các NH sẽ liên kết với nhau để chia sẻ rủi ro do nợ xấu mang lại, đồng thời việc hợp sức để vực dậy DN trước cảnh phá sản cũng góp phần tích cực cho nền kinh tế tránh tình trạng suy thoái. Cách xử lý này không những giúp NH giải quyết nợ xấu mà còn giúp kinh tế phục hồi, tiếp tục tăng trưởng.

NH phải thay đổi lại cách thẩm định tài sản khi cho vay. Cần phải chú trọng trước tiên đến mục đích vay, dòng tiền luân chuyển hơn là các tài sản thế chấp và chỉ cho vay với hạn mức khoảng 3 lần vốn điều lệ để có người đi vay khả năng trả nợ. Muốn thực hiện phương pháp này NH phải dựa vào dòng tiền, vào sự minh bạch, vào tính khả thi của dự án để cho vay. Nhưng hiện nay, báo cáo tài chính của


DN không đáng tin, dòng tiền cũng khó hiểu nên… NH buộc phải nắm vào tài sản đảm bảo. Tuy nhiên trong tương lai sau khi tái cấu trúc, sự minh bạch trong công bố thông tin được cải thiện thì đây sẽ là phương pháp hiệu quả cho các NHTM trong việc thẩm định dự án cho vay

3.1.2. Phát triển dịch vụ tài chính ngân hàng:


Nhằm tăng nguồn thu ngoài lãi để bù đắp chi phí dự phòng xử lý nợ xấu cũng như thu nhập bị mất do nợ xấu, NH có thể phát triển hoạt động dịch vụ thông qua một trong các biện pháp như xây dựng và định hướng các sản phẩm chuyên biệt cho từng nhóm khách hàng, tạo ra sự khác biệt so với các NH khác với các ưu đãi về phí hoặc thời gian cung cấp dịch vụ nhanh chóng hơn. NH cần thường xuyên nâng cấp các sản phẩm hiện cung cấp, học hỏi các sản phẩm mới, đẩy mạnh việc bán chéo sản phẩm giữa các khối với nhau. Đặc biệt NH cần quan tâm đến nhu cầu liên kết đầu tư, liên kết phát triển các sản phẩm từ chính nhu cầu thực tế của khách hàng như dịch vụ chi trả cổ tức cho khách hàng, thu hộ chi hộ, thẻ quà tặng…Mỗi NH nên thành lập bộ phận nghiên cứu nhu cầu khách hàng, tiềm năng thị trường, các NH cạnh tranh, công nghệ áp dụng, để xây dựng các sản phẩm tiên tiến, đáp ứng được các nhu cầu phức tạp của khách hàng với lộ trình phát triển sản phẩm đến năm 2013.

Đây là giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trong hoạt động, tạo ra những khác biệt trong các sản phẩm dịch vụ ngân hàng cung ứng cho khách hàng và nền kinh tế. Để thực hiện được giải pháp này phải trên nền tảng ứng dụng công nghệ hiện đại. muốn vậy, các NHTM Việt Nam cần:

- Hoàn thiện và nâng cao chất lượng các dịch vụ ở giai đoạn trước ( 2008 – 2012 ) cho toàn bộ hệ thống ngân hàng. Tăng cường phát triển dịch vụ ngân hàng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển một số dịch vụ tài chính liên quan: dịch vụ môi giới và tư vấn tài chính; dịch vụ giữ hộ và quản lý hộ tài chính; dịch vụ bảo hiểm phù hợp với trình độ và khả năng tài chính của các ngân hàng, đảm bảo phát triển an toàn, hiệu quả và bảo mật.


- Quản trị điều hành Ngân hàng theo hướng tiến dần đến chuẩn mực quốc tế, nhất là phù hợp với các quy định của Ngân hàng thanh toán quốc tế.

Các dịch vụ NHTM có thể phát triển bao gồm: Dịch vụ giữ hộ và quản lý hộ tài sản chính: Các tổ chức tín dụng, ngân hàng nhận ủy thác của khách hàng, giữ hộ chứng khoán, thu hộ tiền lãi, tiền gốc khi đến hạn phải thu với một lệ phí hợp lý, giúp khách hàng tiết kiệm thời gian đi nhận tiền lãi, tiền gốc khi chứng khoán đáo hạn. Ngoài ra, các TCTD còn có thể mở dịch vụ thay mặt khách hàng mua hộ, bán hộ chứng khoán theo ủy quyền của khách hàng, nhằm giúp khách hàng sử dụng các khoản thặng dư tài chính có lợi ích cao nhất để đầu tư vào các chứng khoán mong muốn; Dịch vụ tín dụng và tài trợ, dịch vụ thanh toán, dịch vụ đầu tư tài chính; Dịch vụ Ngân hàng bán lẻ (retail banking), phát triển mạng lưới kênh phân phối cả về lượng và về chất nhằm mở rộng địa bàn hoạt động, phát triển thêm các kênh phân phối mới (qua ATM, Internet, điện thoại...) giúp khách hàng dễ dàng tiếp cận với các dịch vụ Ngân hàng; dịch vụ Tư vấn, trung gian môi giới các dịch vụ tài chính phụ trợ khác như: môi giới mua bán chứng khoán, uỷ thác đầu tư; dịch vụ bao thanh toán, dịch vụ hoán đổi lãi suất.

3.1.3. Giải pháp phát triển mạng lưới hoạt động bền vững:


Việc phát triển mạng lưới làm tăng quy mô, nâng cao hiệu quả hoạt động của các NHTM. Do đó, các NHTM nên mở rộng quy mô của mình cả trong và ngoài nước. tuy nhiên, khi phát triển mạng lưới trong nước, cần chú ý Về cơ sở pháp lý hổ trợ : Ngân hàng nhà nước VN phải có thông tư hướng dẫn thực hiện Nghị định chống rửa tiền trên cơ sở phù hợp với những quy định chống rửa tiền của Quốc tế. Về công nghệ : Khi mở thêm chi nhánh hoặc phòng giao dịch thì hội sở chính hoặc chi nhánh cấp 1 phải kết nối được để quản trị rủi ro, quản trị thanh khoản, theo dòi tình hình hoạt động hàng ngày. Việc mở rộng mạng lưới hoạt động phải là Thực sự có nhu cầu cần thiết và kinh doanh có hiệu quả, mở rộng thêm chi nhánh phải trên cơ sở phải có một lượng vốn điều lệ tương ứng hoặc phải tăng thêm vốn điều lệ. Đối với việc phát triển mạng lưới hoạt động ngoài lãnh thổ Việt nam: Hiện tại, đã có một số NHTM mở chi nhánh, văn phòng đại di65n tại nước ngoài như BIDV,

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 03/06/2022