Nguyên Tắ C Công Bằng Khi Xây Dựng Pháp Luật Thuế

vụ. Rõ ràng, việc thu nộp thuế ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của cả hai loại chủ thể. Yêu cầu đặt ra là việc thu nộp thuế phải đạt tới mục tiêu sao cho lợi ích của cả hai bên đều đạt được hoặc có thể chấp nhận được (về phía người nộp thuế). Vì vậy, những tư tưởng xuyên suốt quá trình ban hành văn bản pháp luật thuế, quá trình thu nộp thuế cần phải được làm rõ và quy định pháp luật phải thể hiện rõ tư tưởng này. Nếu không xác định hoặc xác định không đúng nguyên tắc đánh thuế, nhà nước sẽ không nhận được sự ủng hộ của dân chúng, thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau như chống thuế hoặc trốn thuế. Có nhiều nhà nghiên cứu đã đưa ra nguyên tắc đánh thuế nhưng nổi tiếng nhất là nguyên tắc của Adam Smith "bình đẳng, xác thực, tiện lợi và ít tốn kém". Vì vậy việc xây dựng pháp luật thuế ngoài việc phải đảm bảo các nguyên tắc xây dựng pháp luật nói chung còn phải đảm bảo các nguyên tắc cơ bản sau:

- Nguyên tắc công bằng

- Nguyên tắc minh bac̣ h, rõ ràng, cụ thể

- Nguyên tắc đơn giản, dễ hiểu, dễ tính toán

- Nguyên tắc thuân

- Nguyên tắc hiêụ

tiênquả

cho người nộp thuế

1.2.1. Nguyên tắ c công bằng khi xây dựng pháp luật thuế

Nguyên tắc này lần đầu tiên được nhắc đến trong Bản Tuyên ngôn nhân quyền năm 1789 và đã gây ra rất nhiều tranh cãi trong giới học giả thời bấy giờ. Điều đó khiến cho việc xác định nội dung của nguyên tắc này trở nên rất khó khăn, bởi đây là nguyên tắc vừa có thể tiếp cận từ khía cạnh chính trị, vừa có thể xem xét từ khía cạnh kinh tế và khía cạnh pháp lý.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.

Xét ở khía cạnh chính trị, nguyên tắc này gắn bó chặt chẽ với vấn đề nhân quyền, trong đó có quyền được đối xử bình đẳng và không phân biệt. Còn xét ở khía cạnh kinh tế, nguyên tắc này liên quan đến vấn đề bản chất của thuế, như là một nghĩa vụ tài sản "bất khả tránh" của tổ chức và cá nhân đối

với Nhà nước. Tuy nhiên, xét từ khía cạnh pháp lý, nguyên tắc công bằng và không phân biệt đối xử thường được nhắc đến với nội dung chủ yếu là quyền bình đẳng của mọi người nộp thuế trước pháp luật. Nói cách khác, xét ở khía cạnh này, mọi công dân đều được bình đẳng như nhau trước các quy định của pháp luật thuế, mặt khác, "luật pháp phải được áp dụng như nhau đối với tất cả người nộp thuế ở trong những hoàn cảnh giống nhau".

Các nguyên tắc xây dựng pháp luật thuế - 4

Tư tưởng công bằng xuyên suốt trong các loại quan hệ xã hội và là nguyên tắc quan trọng của việc xây dựng các mối quan hệ giữa xã hội và cá nhân, giữa Nhà nước và công dân, giữa các tổ chức xã hội và các thành viên của các tổ chức đó, giữa cá nhân với cá nhân, giữa các dân tộc, quốc gia với

nhau. Tư tưởng công bằng cũng phải xuyên suốt trong các quan hệ thuế bởi "bản chất của thuế là loại quan hệ phân phối gắn với Nhà nước, loại quan hệ giữa Nhà nước với người nộp thuế. Bản chất này không thay đổi trong những xã hội có chế độ kinh tế, chính trị khác nhau" [33, tr. 11]. Khi công bằng được

ghi nhận như là một nguyên tắc thì nó trở thành một thuộc tính vốn có, không thể tách rời của thuế nói chung và thuế thu nhập cá nhân nói riêng. Thuộc tính này là tư tưởng chỉ đạo trong suốt quá trình ra đời, tồn tại của thuế, không phải chỉ là sự đòi hỏi, yêu cầu tạm thời của thuế.

Trong lịch sử phát triển của thuế nói chung đã có nhiều quan điểm khác nhau khi đề cập đến những quy định thu nộp trong thuế, câu hỏi được đặt ra: Ai có quyền thu thuế, công bằng trong thuế như thế nào. Theo quan niệm cổ điển về thuế thì thuế có bốn đặc trưng sau: (1) Thuế là khoản trích nộp bắt buộc bằng tiền của tổ chức, cá nhân cho Nhà nước; (2) Thuế là khoản đóng góp bắt buộc dựa trên quyền lực nhà nước; (3) Thuế là khoản thu không có hoàn trả; (4) Thuế là khoản thu không có đối khoản trực tiếp. Có thể nhận thấy, điểm hạn chế lớn nhất của quan niệm cổ điển về thuế là tuyệt đối hóa vai trò quyền lực nhà nước trong việc xác lập và thu thuế, nhấn mạnh nhiều đến tính cưỡng chế và bắt buộc của Nhà nước, tính không hoàn trả, trong khi

coi nhẹ vai trò của người nộp thuế trong quan hệ nộp thuế với Nhà nước. Theo quan niệm hiện đại về thuế, tuy không phủ nhận hoàn toàn các đặc trưng cơ bản của quan niệm cổ điển về thuế, nhưng cho rằng cần nhận thức lại về bản chất mối liên hệ giữa Nhà nước với công dân trong lĩnh vực thuế vụ, dựa trên nền tảng ý tưởng về một xã hội công bằng, dân chủ [32, tr. 65]. Thuộc tính công bằng trong thuế là sự đòi hỏi khách quan trong tiến trình phát triển của thuế, nhất là ở xã hội dân chủ. Vậy thuộc tính công bằng trong thuế thể hiện như thế nào.

Thứ nhất, công bằng thể hiện ở nghĩa vụ phải nộp thuế của các cá nhân, tổ chức trong xã hội. Trong lịch sử loài người, sự tồn tại của Nhà nước là đòi hỏi thực tế khách quan của quy luật phát triển. Nhà nước phải thu thuế bởi vì Nhà nước là thực thể sống. Để tồn tại, nhất là để tổ chức, lãnh đạo và điều khiển xã hội theo định hướng và mục tiêu của mình, Nhà nước cần phải có trong tay những phương tiện tài chính cần thiết. Các phương tiện tài chính này được tồn tại dưới hình thức là các khoản thu của Nhà nước. Trong các khoản thu của Nhà nước, thu từ thuế có vai trò quan trọng, không có thu nhập từ thuế chắc chắn Nhà nước sẽ không đủ tài chính để thực hiện các nhiệm vụ của mình. Quyền thu thuế của Nhà nước là hoàn toàn chính đáng, bởi vì để thực hiện chức năng kinh tế của mình, có thể tổ chức nhà nước dưới dạng "Nhà nước thuế" [9], Nhà nước thuế là Nhà nước không tham gia trực tiếp vào các hoạt động kinh tế mà dành cơ hội đó cho các chủ thể khác trong xã hội và đổi lại Nhà nước thu một phần thu nhập kinh tế của họ. Một cách thức khác nữa giúp Nhà nước có nguồn thu là Nhà nước tham gia vào các hoạt động kinh tế, trong Nhà nước kinh tế thì các hoạt động kinh tế là một cách thức để tạo nguồn thu chính. Hoạt động kinh tế trực tiếp của Nhà nước có thể làm hạn chế khả năng hành động của các chủ thể khác, với quyền lực của mình nếu cho phép hoạt động kinh tế có thể dẫn đến Nhà nước hóa xã hội. Nếu Nhà nước tham gia vào các hoạt động kinh tế với mục tiêu lợi nhuận thì

Nhà nước sẽ trở thành người cạnh tranh với người tham gia thị trường, đó là sự cạnh tranh không cân xứng và không hợp lý. Như vậy, các chủ thể khác trong xã hội để tồn tại một cách bình thường và không phải cạnh tranh không cân xứng với Nhà nước thì phải có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước. Đó cũng là lẽ công bằng. Nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước là bắt buộc, việc chuyển giao thu nhập dưới hình thức thuế không gắn với lợi ích cụ thể của người nộp thuế. Để đảm bảo nhu cầu chi tiêu công, Nhà nước tất yếu phải sử dụng quyền lực để bắt buộc mọi đối tượng có thu nhập phải chuyển giao một phần cho mình. "Hành động đóng thuế cho Nhà nước không phải là hành động xuất hiện khi có dấu hiệu phạm pháp mà là hành động thực hiện nghĩa vụ của người công dân" [10, tr. 30].

Trong mục tiêu của Nhà nước dân chủ, văn minh, xét đến cùng là vì con người, cho con người. Để thực hiện mục tiêu này, Nhà nước không chỉ phải thỏa mãn ngày càng tốt hơn những nhu cầu vật chất và tinh thần, mà còn yêu cầu và đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ của con người ngày càng tăng. Con người trong xã hội phải nâng cao nghĩa vụ, trách nhiệm của mình và Nhà nước cũng phải chú trọng đến việc đảm bảo cho con người thực hiện trách nhiệm đó trên tinh thần tự giác và tuân thủ kỷ luật, trong đó có nghĩa vụ thuế đối với ngân sách nhà nước. Nhà nước khi xác định nghĩa vụ thuế cho các đối tượng chịu thuế bao giờ cũng phải đặt ra vấn đề công bằng giữa họ, những người có điều kiện, hoàn cảnh liên quan đến thuế như nhau phải được đối xử về thuế như nhau. Trường hợp có sự khác nhau về điều kiện, hoàn cảnh thì những đối tượng khác nhau, nhưng cùng loại phải được đối xử với nhau tương xứng.

Thứ hai, công bằng trong việc đánh thuế dựa trên khả năng trả thuế của đối tượng nộp thuế. Một trong những đặc trưng của Nhà nước so với các tổ chức xã hội khác, đó là Nhà nước có quyền ban hành ra thuế, thu thuế và người dân phải có nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước. Vì vậy, rất dễ dẫn đến hiện tượng Nhà nước sẽ lạm thu và người dân trốn tránh nghĩa vụ của mình.

Xuất phát từ chủ nghĩa tự do, các học giả tiêu biểu như John Locke, Adam Smith, Montesquieu…đã đưa ra "lý thuyết về thuế - trao đổi" [9, tr. 713-716]. Theo lý thuyết này, cá nhân nên bị đánh thuế theo lợi ích mà cá nhân được hưởng từ chi tiêu công được đáp ứng bằng các khoản thuế thu được. Những người đề xướng tiếp cận công bằng từ góc độ lợi ích phân tích mọi khoản thuế do Nhà nước đặt ra để yêu cầu dân chúng đóng góp phải dựa trên sự tự nguyện của dân chúng, đồng thời phải tương xứng với những gì được gọi là hàng hóa và dịch vụ công cộng mà người nộp thuế sẽ được hưởng. Tư tưởng này có ưu điểm lớn về đòi hỏi công bằng là: Thuế mà Nhà nước thu được của dân chúng trên cơ sở tự nguyện của họ nhưng Nhà nước phải sử dụng số tiền thuế do dân chúng đóng góp một cách thực tế, hiệu quả, không gây lãng phí và có lợi cho dân trên cơ sở trao đổi lợi ích ngang bằng. Tuy nhiên, để thực hiện lý thuyết này đảm bảo công bằng có một số nhược điểm là:

Một là, vì dựa trên cơ sở trao đổi lợi ích nên vị trí của Nhà nước trong việc thu thuế bị kéo xuống thấp, cào bằng như cá nhân nộp thuế, điều này rất dễ dẫn đến tình trạng lộn xộn trong xã hội, có khi lại tạo ra sự bất công trong xã hội khi vai trò của Nhà nước bị đánh giá thấp

Hai là, khó lý giải được tại sao có những người được hưởng thụ các dịch vụ và hàng hóa công ít hơn nhưng lại phải nộp thuế nhiều hơn và ngược lại, hay việc người nộp thuế hầu như không có khả năng lựa chọn các hàng hóa, dịch vụ đó, bởi lẽ đây là vấn đề hầu như hoàn toàn do Nhà nước quyết định. Đôi khi rất khó hình dung được giá trị thực tế của dịch vụ công cộng mà Nhà nước sẽ cung ứng cho người nộp thuế, chẳng hạn như vấn đề quốc phòng và an ninh, vấn đề văn hóa và các hoạt động tư pháp. Vì vậy, việc xác định nghĩa vụ thuế của người nộp thuế cũng trở nên khó khăn hơn

Ba là, vì nộp thuế là trao đổi ngang giá, nên những trường hợp không có khả năng nộp thuế thì Nhà nước sẽ khó có nguồn lực tài chính để giải quyết những chính sách xã hội như trợ cấp thất nghiệp, tạo việc làm cho họ,

Lý thuyết này hướng tới sự bình đẳng giữa Nhà nước và người nộp thuế dựa trên nguyên tắc trao đổi lợi ích ngang bằng, nên có thể gọi lý thuyết thuế - trao đổi đánh thuế trên nguyên tắc lợi ích.

Để nâng cao vai trò của Nhà nước và trách nhiệm của người nộp thuế, theo quan điểm của "Lý thuyết thuế - đoàn kết" [9, tr. 717-719], đòi hỏi người nộp thuế phải hy sinh một phần lợi ích của mình cho Nhà nước vì lợi ích chung của cộng đồng, bằng cách nộp thuế cho Nhà nước theo sự ấn định thuế của Nhà nước sao cho phù hợp với khả năng tài chính của họ và không đẩy họ vào tình trạng bần cùng hóa sau khi nộp thuế, nghĩa vụ thuế sẽ lũy tiến theo cùng với mức độ tăng lên của thu nhập. Lý thuyết này có xu hướng cào bằng nghĩa vụ đóng thuế nếu như khả năng đóng thuế của họ là giống nhau. Lý thuyết về thuế - đoàn kết có ưu điểm thông qua những quy định về thuế góp phần nâng cao trách nhiệm xã hội của người dân đối với Nhà nước, với cộng đồng bằng việc hoàn thành nghĩa vụ thuế theo quy định của pháp luật. Trong chừng mực nào đó, lý thuyết thuế - đoàn kết dường như phù hợp với bối cảnh của nền kinh tế hiện đại khi mà sự phân hóa giàu nghèo trong xã hội ngày càng trở nên sâu sắc do sự phát triển của nền kinh tế thị trường, cùng với yêu cầu giải quyết nhanh chóng, triệt để các hậu quả xã hội của nền kinh tế. Tác giả đồng tình với quan điểm trong lý thuyết thuế - đoàn kết về chính sách thuế của Nhà nước đối với người dân. Việc đánh thuế dựa trên khả năng trả thuế nhưng phải nuôi dưỡng nguồn thu và phải khẳng định Nhà nước không chỉ có quyền thu thuế mà Nhà nước phải có nghĩa vụ sử dụng hợp lý số tiền thu đó để phục vụ cho cộng đồng là đáp ứng được một phần đòi hỏi của công bằng trong xã hội. Tuy nhiên, nếu quá nhấn mạnh đến vị trí, quyền lợi của Nhà nước và khả năng nộp thuế của người dân mà không chú ý đến nhu cầu, lợi ích của người dân trong việc nộp thuế dễ dẫn tới không công bằng như Montesquieu đã viết:

Muốn xác định thu nhập quốc gia thì phải tính toán các nhu cầu của quốc gia và nhu cầu của nhân dân….Phải vận dụng trí

thông minh và tính thận trọng để tính toán, điều chỉnh giữa hai phần: Phần lấy của dân và phần để lại cho dân. Không phải tính toán cái gì mà dân có thể đóng góp thì phải tính khả năng đóng góp thường xuyên ở mức độ nào [11, tr. 125].

Thứ ba, công bằng trong việc quy định miễn, giảm thuế. Trong quá trình quy định thu nộp của mình, Nhà nước có thể đưa ra những quy định liên quan đến việc miễn, giảm thuế cho một số đối tượng nộp thuế. Xét về mặt bản chất thì miễn, giảm thuế là việc Nhà nước không thu hoặc thu ít đi những khoản đáng lẽ ra phải thu. Miễn, giảm thuế có thể hướng tới nhiều mục đích của Nhà nước, như: Dùng miễn, giảm thuế như là một biện pháp thay thế cho chính sách xã hội đối với các đối tượng lẽ ra phải được hưởng trợ cấp của Nhà nước; miễn, giảm thuế nhằm hỗ trợ đối tượng nộp thuế trong một số trường hợp khi đối tượng này rơi vào điều kiện, hoàn cảnh khó khăn nhất định; dung miễn, giảm thuế như một biện pháp ưu đãi để khuyến khích đầu tư [32, tr. 25]. Vì vậy, tính công bằng thể hiện như thế nào đối với những đối tượng được miễn, giảm và đối tượng không được miễn giảm là một vấn đề không đơn giản.

Theo "lý thuyết thuế - bù đắp" [9, tr. 719-721] dựa trên ý tưởng nếu Nhà nước không sửa chữa những bất công do nền kinh tế thị trường vận hành gây ra, vẫn có một số lượng nhất định những người bị loại ra khỏi nền kinh tế thị trường thì Nhà nước cần có nghĩa vụ giúp đỡ. Lý thuyết này vừa coi thuế như là sự trao đổi lợi ích giữa Nhà nước và người nộp thuế. Nếu sự trao đổi đó không đảm bảo lợi ích chính đáng của tất cả người dân, trong đó có những người nghèo thì cần thiết phải có sự tương trợ của những người có khả năng đóng thuế đối với người không có khả năng đóng thuế dựa trên tinh thần tương trợ cộng đồng. Các khoản trợ cấp phải đảm bảo cho họ tồn tại nhưng lại không được khuyến khích họ trở nên lười nhác. Khoản trợ cấp này cũng phải giảm dần nếu người thụ hưởng có thu nhập cao hơn. Như vậy, một mức thu nhập bảo đảm tối thiểu được áp dụng một tỷ lệ điều tiết vừa phải, tỷ lệ này ấn

định một ngưỡng tới hạn không phải nộp thuế và ngưỡng khởi điểm đánh thuế. Lý thuyết thuế - bù đắp mặc dù trên lý thuyết chỉ liên quan và mang lại nhiều lợi ích cho những người nghèo nhưng khi vận dụng hợp lý sẽ đặt ra các giới hạn trong việc điều tiết thuế đối với những người có thu nhập cao và góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế, đảm bảo tính công bằng trong thuế.

Trong xã hội ngày nay, chính sách kinh tế và chính sách xã hội đều phải lấy công bằng xã hội làm điều kiện tiên quyết. Để giải quyết mâu thuẫn trong việc thực hiện chính sách kinh tế và việc thực hiện chính sách xã hội, phải kết hợp hài hòa hai loại chính sách đó cả trong việc hoạch định lẫn trong việc thực hiện chúng. Sự kết hợp giữa chúng phải nhằm mục đích vừa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, vừa đảm bảo thực hiện các mục tiêu xã hội, trong đó có công bằng và bình đẳng xã hội. Nói cách khác, sự kết hợp đó phải nhằm đảm bảo việc thực hiện chính sách kinh tế không dẫn đến những hậu quả tiêu cực và việc thực hiện chính sách xã hội, đến lượt nó, chẳng những không thực hiện mà còn trở thành động lực của sự tăng trưởng và phát triển kinh tế [6, tr. 93]. Vì vậy, chính sách miễn, giảm thuế bóc tách trong chính sách kinh tế, chính sách xã hội và từng góc độ riêng lẻ đối với từng đối tượng nộp thuế là không công bằng. Nếu quy định hợp lý về miễn, giảm thuế và xét trong bối cảnh chung của sự phát triển một đất nước thì đó là sự công bằng và không vi phạm nguyên tắc toàn dân đóng góp thuế.

Thứ tư, tính công bằng không mâu thuẫn với thuộc tính không hoàn trả trực tiếp của thuế. Thuế gắn liền với yếu tố quyền lực của Nhà nước, bất kỳ chủ thể nào trong xã hội khi có đủ các điều kiện đều phải thực hiện nghĩa vụ thuế đối với Nhà nước. Người nộp thuế không có quyền đòi hỏi Nhà nước phải trả lại hoặc thực hiện một dịch vụ tương ứng như phí, lệ phí. Có thể người nộp thuế không được hưởng lợi trực tiếp, còn người không nộp thuế vẫn được hưởng lợi từ nguồn thuế Nhà nước thu được. Điều này có mâu thuẫn với công bằng không.

Xem tất cả 105 trang.

Ngày đăng: 12/10/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí