người có trách nhiệm ra trước Tòa án mà không phải thông qua một cuộc điều tra hình sự khác.
Về ứng dụng công nghệ thông tin vào việc kê khai và nộp thuế
Doanh nghiệp kê khai thuế và nộp thuế bằng nhiều phương pháp như thông qua bưu điện, thuế điện tử, ATM, Internet banking,…
Về cán bộ thuế
Nhân viên thuế khi tuyển mới, cho dù chưa biết nghiệp vụ sổ sách kế toán, sẽ bắt buộc đào tạo tại Trường đại học Thuế vụ trong vòng 13 tháng để trở thành một chuyên viên thuế làm việc thực tế thực thụ.
Một cán bộ thuế phải mất từ 3 - 5 năm để có thể đỗ kỳ thi cố vấn thuế. Nếu không tham gia thi kỳ thi này thì một người phải công tác trong cơ quan thuế trong vòng 23 năm mới có tư cách tương tự như người đỗ kỳ thi cố vấn thuế.
Tóm lại cán bộ thuế là người không chỉ có kiến thức về lý thuyết mà còn giỏi thực hành.
2.2. BÀI HỌC KINH NGHIỆM CHO VIỆC NÂNG CAO TÍNH HIỆU QUẢ CỦA PHÁP LUẬT THUẾ THU NHẬP DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM
Pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp rất quan trọng trong việc tạo lập
nguồn tài chính cho ngân sách nhà nước, góp phần đẩy hoạt động sản xuất hàng hóa, dịch vụ, kích thích đầu tư sản xuất kinh doanh, là môi trường cho doanh nghiệp hình thành và phát triển.
Có thể bạn quan tâm!
- Xác Định Thu Nhập Chịu Thuế Trong Tổ Chức Lại Doanh Nghiệp
- Thuế Suất Thuế Pháp Nhân Đối Với Công Ty Thông Thường Và Tổ Chức Không Có Tư Cách Pháp Nhân
- Các Quy Định Về Quản Lý Thuế Thu Nhập Doanh Nghiệp
- So sánh pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam và Nhật Bản - 12
- So sánh pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam và Nhật Bản - 13
Xem toàn bộ 109 trang tài liệu này.
Do đó, hoàn thiện pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp phải đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng, và nâng cao giá trị pháp lý của các quy phạm pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Luật thuế phải có vai trò quan trọng trong xác định nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân và kiểm soát chặt chẽ nghĩa vụ nộp thuế.
Để nâng cao trách nhiệm của các tổ chức trong thực hiện nghĩa vụ nộp thuế, cần phải xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp thống nhất, giảm thiểu việc có quá nhiều văn bản dưới luật chồng chéo giải thích, bổ sung.
Ngoài ra, không thể xem nhẹ việc phát triển hệ thống cơ quan thuế với đội ngũ cán bộ tinh nhuệ để kịp thời xử lý những vấn đề mới phát sinh trong tình hình hiện nay trong quá trình thực thi pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp, đồng thời cũng có một hành lang pháp lý cho việc quản lý thuế hiệu quả. Để làm được điều này, pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp Việt
Nam cần hoàn thiện theo hướng:
- Đảm bảo tính khoa học và tính đồng bộ của pháp luật: Các quy định của Luật thuế thu nhập doanh nghiệp điều chỉnh các quan hệ xã hội trong lĩnh vực tài chính, cần phải đảm bảo tính kinh tế, khoa học. Các quy định pháp luật phải được xây dựng một cách khoa học, rõ ràng về đối tượng nộp thuế, đối tượng thuộc diễn miễn thuế, phương pháp tính thuế phải đảm bảo hài hòa giữa khả năng quản lý của Nhà nước với nguyên tắc kinh tế.
- Đảm bảo tính phù hợp với thông lệ quốc tế: Đây là một yêu cầu vô cùng quan trọng để gắn kinh tê Việt Nam trong kinh tế khu vực và toàn cầu. Việt Nam đang chủ trương xây dựng một nền kinh tế mở, các hoạt động kinh tế quốc gia gắn với hoạt động kinh tế quốc tế. Trong điều kiện đầu tư nước ngoài ngày một thu hút vào Việt Nam thì việc xây dựng Luật thuế thu nhập doanh nghiệp thể hiện tính lợi thế so với khu vực sẽ góp phần quan trọng thu hút đầu tư và tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước.
- Đảm bảo tính phù hợp và khả thi trong áp dụng tại Việt Nam: Việc xây dựng các quy phạm pháp luật phải tương thích với các văn bản pháp luật liên quan, phù hợp với chính sách kinh tế - tài chính quốc gia, với những ngành nghề lĩnh vực nằm trong chính sách ưu tiên phát triển thì thuế thu nhập doanh nghiệp cũng cần có những quy định ưu đãi nhằm tạo động lực thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh. Ngoài ra cần phải chú ý đến sự phù hợp với quản lý kế toán và các văn bản pháp luật liên quan. Các quy định phải rõ ràng, dễ hiểu, việc xây dựng phải tôn chỉ nguyên tắc đảm bảo quyền của người nộp thuế cũng như hạn chế hành vi vi phạm từ phía cơ quan thuế và người nộp thuế.
Từ những so sánh với pháp luật thuế pháp nhân ở Nhật Bản trong phần trên, rút ra bài học cho việc hoàn thiện thuế thu nhập doanh nghiệp ở Việt Nam.
2.2.1. Bài học về xây dựng pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp
2.2.1.1. Về chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế
- Về đánh thuế đối với tổ chức phi lợi nhuận
Pháp luật Việt Nam cần công nhận nghĩa vụ nộp thuế của tổ chức phi lợi nhuận. Căn cứ xác định nghĩa vụ nộp thuế là hoạt động tạo ra lợi nhuận của tổ chức phi lợi nhuận. Ngoài ra, cần quy định các loại hình tổ chức đặc thù đảm bảo tính đồng bộ của hệ thống pháp luật.
Ở nhiều nước trên thế giới, các tổ chức phi lợi nhuận ngày một phát triển rộng rãi và đa dạng, có ảnh hưởng không nhỏ đối với phát triển kinh tế và xã hội. Cùng với quá trình cải cách kinh tế, xã hội, các hiệp hội, quỹ, tổ chức phi lợi nhuận đã được thể chế hóa bằng các văn bản pháp luật và được tham gia nhiều vào cung cấp dịch vụ công cộng, đẩy mạnh các hoạt động xã hội, từ thiện, giáo dục, phát triển khoa học, nghệ thuật, bảo vệ môi trường,…
Về mặt tài chính, tổ chức phi lợi nhuận được pháp luật thừa nhận hoạt động theo đúng mục tiêu, tôn chỉ và phát triển phù hợp với các thiết chế xã hội, luật pháp của các nước quy định và điều chỉnh các quan hệ về kinh tế, tài chính giữa các tổ chức với thành viên, quan hệ với các đối tác nước ngoài, giữa các tổ chức với các nhà tài trợ, giữa tổ chức với các thành viên trong xã hội được thụ hưởng dịch vụ hoặc lợi ích nhất định do các tổ chức thực hiện. Pháp luật thuế cũng có những quy định rất chặt chẽ để kiểm soát cả các tổ chức phi lợi nhuận và các nhà tài trợ nhằm ngăn ngừa các hành vi lạm dụng quyên góp.
Từ đó có thể thấy được vai trò không nhỏ của các tổ chức phi lợi nhuận, và việc quy định cụ thể về chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế này cũng là cần thiết và phù hợp với chuyển biến tình hình xã hội hiện nay.
- Đánh thuế đối với công ty hợp danh và doanh nghiệp tư nhân
Theo Luật doanh nghiệp thì công ty hợp danh có tư cách pháp nhân nhưng các thành viên hợp danh lại chịu trách nhiệm vô hạn đối với các khoản nợ của công ty. Còn doanh nghiệp tư nhân thì không thể xác định được chính xác thu nhập của doanh nghiệp do sự phân tách sở hữu và điều hành trong doanh nghiệp, sự phân tách giữa tài sản của doanh nghiệp và tài sản của cá nhân không rõ ràng. Bởi vậy cần thiết phải tạo ra cơ sở pháp lý cho phép lựa chọn kê khai nộp thuế thu nhập doanh nghiệp hoặc thuế thu nhập cá nhân đối với loại hình doanh nghiệp là công ty hợp danh chỉ tồn tại thành viên hợp danh, và doanh nghiệp tư nhân có hoạt động kinh doanh quy mô nhỏ.
- Đánh thuế đối với các đơn vị sự nghiệp
Về nguyên tắc, các đơn vị công lập thực hiện cung cấp dịch vụ công như bệnh viện, cơ sở ý tế, trường học, báo chí, nhà xuất bản không bị đánh thuế. Nếu cho rằng chỉ các doanh nghiệp được quy định theo Luật doanh nghiệp có nghĩa vụ nộp thuế thì điều này là đương nhiên. Nếu căn cứ vào hoạt động tạo ra nguồn thu nhập thì trong nhiều trường hợp cần xem xét việc nguồn thu nhập phát sinh thì các đơn vị sự nghiệp công lập như cơ quan báo chí, đại học công lập hay bệnh viện… cũng phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế.
Căn cứ vào mục đích của đơn vị cung cấp dịch vụ công do tổ chức và cá nhân lập ra như trường tư, bệnh viện tư thì cần thiết đánh thuế đối với loại hình tổ chức này. Nếu so sánh mức thu học phí của các cơ sở tự lập có thể thấy, chênh lệch lợi nhuận rất lớn. Nên chăng cần quy định ngưỡng chịu thuế đối với thu nhập phát sinh từ hoạt động thu lợi nhuận của các đơn vị này. Ngoài ra, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp cũng cần đảm bảo tính đồng bộ của pháp luật, xác định cụ thể loại hình doanh nghiệp, tổ chức thực hiện các dịch vụ công hoặc ủy quyền cho Chính phủ chi tiết hóa điều này.
- Đánh thuế liên kết đối với công ty có hoạt động kinh doanh liên kết Với sự phát triển kinh tế ngày một lớn mạnh về quy mô, cùng với sự
ảnh hưởng của kinh tế thế giới, có không ít tập đoàn, tổng công ty ra đời và
phát triển quy mô lớn. Cụ thể là việc hình thành công ty mẹ con. Một tập đoàn hoặc tổng công ty có thể có nhiều công ty con kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trong các lĩnh vực khác nhau, tuy nhiên giữa công ty mẹ và công ty con, giữa các công ty con với nhau vẫn có sự liên hệ về mặt tài chính như việc dịch chuyển lỗ hoặc lợi nhuận, dịch chuyển vốn đầu tư…hay sự liên kết trong quá trình hoạt động kinh doanh. Chính vì thế, để tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp, nên quy định việc cho phép kê khai thuế, nộp thuế liên kết để tạo tính thống nhất trong quá trình quyết toán cho doanh nghiệp, đồng thời cũng tránh được trường hợp bỏ lọt thuế thu nhập doanh nghiệp do doanh nghiệp tiến hành chuyển lỗ hay lợi nhuận mà không khai báo.
- Đánh thuế đối với pháp nhân ủy thác
Cùng với sự phát triển của các loại hình dịch vụ, thì pháp nhân ủy thác cũng là dạng doanh nghiệp hình thành và kinh doanh dịch vụ làm thay những công việc mà các công ty, tổ chức, cá nhân khác ủy thác. Chính vì sự phát triển ngày càng nhiều của loại hình pháp nhân này, nên việc quy định nó là một loại chủ thể nộp thuế một cách cụ thể cũng là điều cần thiết.
2.2.1.2. Về thu nhập chịu thuế
Việc xác định đúng đắn và hợp lý các khoản thu nhập chịu thuế có ý nghĩa quan trọng trong tạo nguồn thu ngân sách nhà nước và đảm bảo công bằng đối với các doanh nghiệp. Trước đây, trong quy định về thu nhập chịu thuế Luật thuế thu nhập doanh nghiệp và văn bản hướng dẫn chưa quy định về nguồn thu nhập từ chênh lệch do đánh giá lại tài sản trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, Thông tư 78/2014/TT-BTC của Bộ Tài chính ra đời đã bổ sung quy định này.
Ở Việt Nam, việc quy định xác định thu nhập chịu thuế trong trường hợp tổ chức lại doanh nghiệp chưa có tính hệ thống do tình hình mua bán, chia tách, hợp nhất, sáp nhập công ty chủ yếu diễn ra giữa công ty mẹ với công ty con, không phát sinh thu nhập chịu thuế. Tuy nhiên, trước tình hình hiện nay, việc mua bán công ty có thể diễn ra giữa các doanh nghiệp không
liên quan đến nhau, giữa doanh nghiệp nước ngoài với doanh nghiệp trong nước, nên việc xây dựng khung pháp lý cụ thể cho việc xác định thu nhập chịu thuế đối với trường hợp tổ chức lại doanh nghiệp là cần thiết để đáp ứng tình hình hiện nay.
2.2.1.3. Ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp
Với một nền kinh tế đang phát triển như hiện nay, Việt Nam đặt trọng tâm xóa đói giảm nghèo, xây dựng hệ thống các doanh nghiệp thuộc các ngành mũi nhọn, then chốt và ưu tiên doanh nghiệp kinh doanh tại các vùng miền kém thuận lợi không sai về định hướng phát triển. Tuy nhiên, vẫn là phiến diện và thiếu sót.
Trong điều kiện hiện này, số lượng doanh nghiệp ở nước ta là không nhỏ trong có 95% là doanh nghiệp vừa và nhỏ thì việc văn bản hóa bằng Luật chế độ ưu đãi về thuế theo quy mô có tác dụng tích cực khuyến khích duy trì và phát triển cho các doanh nghiệp này. Hơn nữa, việc tập trung ưu đãi và tạo điều kiện quá nhiều cho doanh nghiệp mũi nhọn, then chốt hay doanh nghiệp vùng miền mà không quan tâm đến yếu tố cạnh tranh lành mạnh thì không những không tạo đà phát triển cho các doanh nghiệp này mà còn làm cho các doanh nghiệp này dựa dẫm, ỉ lại vào sự quan tâm của Nhà nước.
Hiện nay, Luật thuế thu nhập doanh nghiệp đã sửa đổi nhưng cũng cần xem xét quy định phù hợp hơn về ưu đãi thuế có phân biệt doanh nghiệp qui mô vừa và nhỏ và doanh nghiệp quy mô lớn bởi doanh nghiệp có qui mô lớn và lợi thế cạnh tranh có thương hiệu thì dễ dàng hơn trong việc bù đắp chi phí, trong khi đó, doanh nghiệp vừa và nhỏ lại không có điều kiện như vậy. Có hai cách để quy định ưu đãi thuế đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Một là nới lỏng quy định về chi phí hợp lý, chẳng hạn cho phép doanh nghiệp vừa và nhỏ được khấu trừ chi phí quảng cáo, khuyến mại nhiều hơn so với doanh nghiệp có quy mô lớn với mức trên 10%. Hai là quy định mức thuế suất áp dụng thấp hơn thuế suất thông thường.
Quy định mức thuế suất ưu đãi đối với doanh nghiệp mới thành lập thuộc lĩnh vực giáo dục đào tạo, y tế, thể thao, văn hóa, công nghệ cao với mức thuế suất 10% là hợp lý, tuy nhiên, cần quy định thời hạn miễn thuế dài hơn 4 năm. Các doanh nghiệp được thành lập đều nhằm mục đích kinh doanh, tuy nhiên cần tính toán việc miễn thuế và ưu đãi thuế khác dài hơn nhìn từ góc độ đảm nhận trách nhiệm đối với xã hội của doanh nghiệp, việc doanh nghiệp đầu tư cũng chính là giảm bớt gánh nặng đầu tư của Nhà nước.
2.2.1.4. Khấu trừ các khoản đóng góp
Luật thuế thu nhập doanh nghiệp không chỉ quy định về nghĩa vụ nộp thuế, căn cứ xác định nghĩa vụ nộp thuế, mà cần thiết phải thể hiện mục đích của Nhà nước hướng hoạt động của doanh nghiệp trực tiếp hoặc gián tiếp thực hiện các chính sách xã hội. Hiện nay, có quy định miễn thuế thu nhập doanh nghiệp đối với phần thu nhập từ hoạt động dạy nghề dành riêng cho người dân tộc thiểu số thực tế chỉ có ý nghĩa khi người được miễn, giảm thuế có phát sinh số thuế thu nhập phải nộp, cần xác định đây là hoạt động công ích không thuộc đối tượng đánh thuế, có như vậy mới khuyến khích được doanh nghiệp cung cấp dịch vụ với giá thấp và phù hợp với mục đích khuyến khích của Nhà nước.
Ngoài ra cũng cần chi tiết hóa hơn việc khấu trừ các khoản đóng góp cho các đối tượng khác nhau ngay trong Luật thuế thu nhập doanh nghiệp. Việc Luật thuế thu nhập doanh nghiệp quy định theo hướng loại trừ các khoản thu nhập không được trừ là hợp lý, giảm bớt số lượng các điều khoản, tạo ra sự chủ động cho cơ quan thuế trong việc xác định thu nhập chịu thuế. Tuy nhiên, sự chưa rõ ràng, minh bạch sẽ khiến cho việc áp dụng khó khăn nếu như không chỉ dẫn các quy định có liên quan đến khoản tài trợ thuộc đối tượng khấu trừ.
2.2.2. Bài học về tổ chức thực thi pháp luật thuế thu nhập doanh nghiệp
2.2.2.1. Hiện đại hóa công tác tuyên truyền hỗ trợ đối tượng nộp thuế
Trong quá trình cải cách thuế, chính sách thuế chưa ổn định, thường xuyên thay đổi, bổ sung, đối tượng nộp thuế không thể nắm bắt kịp thời,
không biết hết các thủ tục và nghĩa vụ thuế của mình. Vì vậy, cần phải hiện đại hóa công tác tuyên truyền hỗ trợ đối tượng nộp thuế, giúp cho mọi tổ chức cá nhân hiểu được bản chất tốt đẹp của thuế, từ đó có ý thức tự giác chấp hành nghiêm chỉnh các quy định về thuế trong toàn dân và toàn xã hội.
Để hiện đại hóa công tác tuyên truyền hỗ trợ Cục thuế phải kết hợp với Tổng Cục thuế triển khai một số biện pháp sau:
- Rà soát, bổ sung, hoàn thiện cơ sở dữ liệu sẵn có về hệ thống văn bản pháp quy, văn bản hướng dẫn về thuế, các thủ tục hành chính thuế trên Website Tổng cục thuế; tổng hợp các câu hỏi, vướng mắc của đối tượng nộp thuế và soạn thảo nội dung trả lời thống nhất theo từng chủ đề.
- Kiện toàn đội ngũ cán bộ trong hệ thống tuyên truyền hỗ trợ đối tượng nộp thuế mạnh cả về số lượng và trình độ. Hằng năm cần tuyển thêm cán bộ tuyên truyền là các sinh viên khá, giỏi mới ra trường thuộc chuyên ngành tài chính - thuế, báo chí - tuyên truyền có trình độ ngoại ngữ, tin học tốt.
- Sử dụng các sâu, rộng các hình thức và biện pháp tuyên truyền khác nhau như: phát triển hệ thống Website của Tổng cục thuế, cung cấp các dịch vụ điển tử (dịch vụ đăng kí thuế, kê khai thuế, nộp thuế, hỏi đáp qua mạng,…); phối hợp với các thông tin đại chúng như đài phát thanh - truyền hình, báo chí để xây dựng chuyên mục về thuế định kỳ, xây dựng một số phim phóng sự, kịch ngắn hoặc tổ chức định kỳ các cuộc thi tìm hiểu pháp luật thuế,…; đưa nội dung tuyên truyền về thuế vào nội dung giáo trình giáo dục tại các cấp học theo các nước tiên tiến; phát hành các ấn phẩm tuyên truyền và đổi mới các khẩu hiệu tuyên truyền trên các panô, áp phích theo hướng dễ nhớ, dễ hiểu và thiết thực,…
2.2.2.2. Nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ thuế
Giải pháp then chốt đó là phải nâng cao được trình độ, năng lực, kỹ năng nghiệp vụ của cán bộ trong toàn ngành. Với tiến trình cải cách, đến nay chúng ta đã xây dựng được những nội dung nền tảng quan trọng, đó là cơ sở