Thực Tiễn Giải Quyết Vụ Án Hình Sự Và Một Số Tồn Tại Vướng Mắc Đối Với Việc Xác Định Các Hình Thức Đồng Phạm Tại Tỉnh Hà Giang

chức phải có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm. Vì vậy, nếu việc thực hiện tội phạm giản đơn, không đòi hỏi phải có sự tính toán và chuẩn bị kỹ càng, chu đáo thì không phải là phạm tội có tổ chức. Thí dụ: Hai thanh niên muốn có tiều tiêu, nên rủ nhau đi ăn cắp xe đạp, khi gặp người để xe sơ hở đã phân công một người canh gác và một người lấy xe… .

Phạm tội có tổ chức phải có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm. Trong thực tế, sự câu kết này có thể thể hiện dưới các dạng sau đây:

a) Những người đồng phạm đã tham gia một tổ chức phạm tội như: đảng phái, hội, đoàn phản động, băng, ổ trộm, cướp… có những tên chỉ huy, cầm đầu. Tuy nhiên, cũng có khi tổ chức phạm tội không có những tên chỉ huy, cầm đầu mà chỉ là sự tập hợp những tên chuyên phạm tội đã thống nhất cùng nhau hoạt động phạm tội. Thí dụ: sau khi đã hết hạn tù, một số tên chuyên trộm cắp đã tập hợp nhau lại và thống nhất cùng nhau tiếp tục hoạt động phạm tội.

b) Những người đồng phạm đã cùng nhau phạm tội nhiều lần theo một kế hoạch đã thống nhất trước. Thí dụ: một số nhân viên nhà nước đã thông đồng với nhau tham ô nhiều lần; một số tên chuyên cùng nhau đi trộm cắp; một số tên hoạt động đầu cơ, buôn lậu có tổ chức đường dây để nắm nguồn hàng, vận chuyển, thông tin về giá cả…

c) Những người đồng phạm chỉ thực hiện tội phạm một lần, nhưng đã tổ chức thực hiện tội phạm theo một kế hoạch được tính toán kỹ càng, chu đáo, có chuẩn bị phương tiện hoạt động và có khi còn chuẩn bị cả kế hoạch che giấu tội phạm. Thí dụ: Trong các trường hợp trộm cắp, cướp tài sản của công dân mà có phân công điều tra trước về nơi ở, quy luật sinh hoạt của gia đình chủ nhà, phân công chuẩn bị phương tiện và hoạt động của mỗi người

đồng phạm; tham ô mà có bàn bạc trước về kế hoạch sửa chữa chứng từ sổ sách, hủy chứng từ, tài liệu hoặc làm giả giấy tờ; giết người mà có bàn bạc hoặc phân công điều tra sinh hoạt của nạn nhân, chuẩn bị phương tiện và kế hoạch che giấu tội phạm v.v…

Theo chúng tôi trường hợp a, c được coi là tội phạm có tổ chức là thỏa đáng song ở trường hợp b nếu "kế hoạch thống nhất từ trước" không thể hiện sự liên kết, tính thống nhất cao trong đồng phạm mà chỉ là kế hoạch đơn giản thì vẫn chưa thể hiện được bản chất của cụm từ "câu kết chặt chẽ". Hướng dẫn của Nghị quyết 02 về cụm từ "câu kết chặt chẽ" vẫn còn chung chung, còn nhiều ý kiến tranh luận nên sẽ khó khăn khi vận dụng tình tiết này trong xét xử.

Do tính chất của phạm tội có tổ chức là rất nguy hiểm nên BLHS 1999 quy định tình tiết "phạm tội có tổ chức" là tình tiết định khung tăng nặng hình phạt của 76 điều luật và là tình tiết tăng nặng hình phạt quy định tại điểm a khoản 1 Điều 48.

* Bộ luật hình sự năm 1999 không có điều luật riêng biệt quy định những vấn đề thuộc về trách nhiệm hình sự của những người thực hiện tội phạm trong đồng phạm nhưng có đề cập đến trách nhiệm hình sự của người đồng phạm là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, người phạm tội có tổ chức, cụ thể:

Đi ều 3 . Nguyên tắc xử lý

1. Mọi hành vi phạm tội phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật.

2. Mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt nam, nữ, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội.

Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, lưu manh, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền

hạn để phạm tội; người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả nghiêm trọng.

Hiện nay các vấn đề này không được quy định thành điều luật riêng trong BLHS. Cá biệt có những nguyên tắc được quy định ở một số điều luật rải rác trong phần tội phạm cụ thể. Thực tế xét xử, hầu hết chúng ta mặc nhiên thừa nhận những nguyên tắc trách nhiệm hình sự áp dụng trong đồng phạm theo các tài liệu nghiên cứu giảng dạy.

Cụ thể:

- Đối với nguyên tắc những người đồng phạm phải chịu trách nhiệm chung về toàn bộ tội phạm trong đồng phạm, điều 89 BLHS 1999 - Tội phá rối an ninh quy định:

Người nào nhằm chống phá chính quyền nhân dân mà hoạt động, lôi kéo, tụ tập nhiều người phá rối an ninh, chống người thi hành công vụ, cản trở hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc tổ chức xã hội thì bị phạt tù từ năm năm đến mười lăm năm.

Người đồng phạm khác bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm.

- Đối với nguyên tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự của người đồng phạm chúng ta áp dụng các điều luật như Điều 25 (miễn trách nhiệm hình sự); Điều 45 (căn cứ quyết định hình phạt); Điều 54 (miễn hình phạt); Điều 60 (án treo). Tương tự như các trường hợp phạm tội riêng lẻ. Ngoài ra có ba điều luật quy định riêng đối với đồng phạm đó là: Điều 53 quy định: "Quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm" như sau: "Khi quyết định hình phạt đối với những trường hợp đồng phạm phải xét đến tính chất đồng phạm, tính chất và mức độ tham gia của từng người đồng phạm". Điểm n khoản 1 Điều 48 quy định xúi giục người chưa thành niên phạm tội là tình tiết tăng nặng hình phạt.

Như vậy chỉ với những quy định rải rác trên chúng ta phải hiểu đường

lối xét xử đối với người thực hành, người xúi giục (trừ trường hợp xúi giục vị thành niên) người giúp sức về cơ bản không có gì khác so với những trường hợp phạm tội riêng lẻ khác. Cá biệt đối với một số trường hợp phạm tội cụ thể (hiếp dâm,cưỡng dâm...) họ sẽ phải áp dụng tình tiết tăng nặng định khung do tính chất đồng phạm, tính chất của loại tội phạm cụ thể.

Xác định trách nhiệm hình sự đối với những người tham gia đồng phạm là một vấn đề tương đối phức tạp cần tổng hợp các quy phạm pháp luật nằm rải rác trong nhiều điều luật của BLHS. Do vậy, sẽ rất thuận lợi cho công tác áp dụng pháp luật nếu những quy định này được thống nhất, quy tụ trong một chương riêng biệt của BLHS.

- Đối với việc xác định trách nhiệm hình sự trong đồng phạm chưa hoàn thành:

BLHS hiện hành chưa có quy định nào quy định về các giai đoạn thực hiện tội phạm trong đồng phạm. Theo lý luận khoa học Luật hình sự có các giai đoạn thực hiện tội phạm của người thực hành thì cũng có thể có các giai đoạn thực hiện tội phạm của người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức nói riêng [37]. Hiện nay để xác định trách nhiệm hình sự đối với họ, chúng ta chỉ áp dụng tương tự các Điều 52 (quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt), Điều 17 (chuẩn bị phạm tội), Điều 18 (phạm tội chưa đạt). Việc áp dụng tương tự chỉ có tác dụng nhất thời phục vụ thực tiễn xét xử. Về mặt lý luận khoa học vẫn còn nhiều tranh cãi. (Ví dụ: trường hợp một đối tượng xúi giục người khác thực hiện hành vi phạm tội nguy hiểm như cướp giật tài sản bằng xe phân phối lớn cùng một hành vi xúi giục như nhau có thể được coi là phạm tội hoàn thành nếu người thực hành đã cướp được tài sản của người khác, có thể được coi là chuẩn bị phạm tội nếu vì lý do khách quan người thực hành không cướp được tài sản của người khác.

Như vậy đã quá tuyệt đối hóa vai trò của người thực hành, không xem xét đến tính độc lập tương đối của người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức...)

Tóm lại: Đồng phạm là một chế định lớn và phức tạp trong Bộ luật Hình sự. Việc áp dụng các quy định của BLHS đối với những vụ việc có đồng phạm cần có cái nhìn tổng quát, sâu rộng thì mới có thể tránh được những sai lầm, phiến diện. Cùng với sự phát triển của khoa học Luật hình sự thì chế định đồng phạm cũng đang được hoàn thiện. Tuy vậy, cần phải khẳng định rằng các quy định về đồng phạm trong Bộ luật Hình sự hiện nay còn thiếu, một số quy định đã có thì còn có điểm chưa thống nhất trong nhận thức và nằm rải rác ở nhiều chương. Cần phải nhanh chóng xây dựng thêm các quy định trong Bộ luật Hình sự về đồng phạm làm cơ sở pháp lý vận dụng trong thực tiễn điều tra, truy tố, xét xử.

2.2. Thực tiễn giải quyết vụ án hình sự và một số tồn tại vướng mắc đối với việc xác định các hình thức đồng phạm tại tỉnh Hà Giang

2.2.1. Thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự trên địa bàn tỉnh Hà Giang

Hà Giang là tỉnh miền núi cao nằm ở cực bắc tổ quốc, phía Bắc giáp các tỉnh Vân Nam và Quảng Tây – Trung Quốc, phía Nam giáp tỉnh Tuyên Quang, phía Đông giáp tỉnh Cao Bằng, phía Tây giáp tỉnh Yên Bái và Lào Cai. Diện tích tự nhiên là 7.884,37 km².

Dân số tỉnh Hà Giang theo điều tra dân số ngày 1 tháng 4 năm 2009 là

724.537 người. Trong đó dân số thành thị là 84.338 người. Các dân tộc: Mông (chiếm 32,0% tổng dân số toàn tỉnh, Tày (23,3%), Dao (15,1%), Việt (13,3%), Nùng (9,9%)... Hà Giang với dải núi cao Tây Côn Lĩnh và cao nguyên Đồng Văn đã tạo nên địa hình cao dần về phía Tây Bắc, thấp dần về phía Đông Nam. Địa hình chia cắt thành các tiểu vùng mang đặc điểm khác nhau về độ cao, thời tiết khí hậu. Hà Giang được thiên nhiên ưu đãi với nền

văn hoá lâu đời thuộc niên đại đồ đồng Đông Sơn, có các di tích người tiền sử ở Bắc Mê, Mèo Vạc. Đây cũng là tỉnh có nhiều đồng bào dân tộc thuộc vùng Đông Bắc sinh sống, với 22 dân tộc có nhiều phong tục tập quán, văn hoá truyền thống và những lễ hội rất sinh động đã làm Hà Giang trở thành nơi hấp dẫn du khách đến tham quan.

Hà Giang là tỉnh miền núi với địa thế khá hiểm trở, cùng với nhiều diện tích rừng nguyên sinh, dân cư đa dạng các chủng tộc nên đây trở thành địa bàn khá thuận lợi cho các hoạt động tội phạm đặc biệt là các loại tội phạm như: Buôn lậu, ma túy, buôn bán người...

Các loại tội phạm thực hiện với hình thức đồng phạm ở Hà Giang chủ yếu là: mua bán trái phép chất ma túy, mua bán phụ nữ, mua bán trẻ em, buôn lậu… nhiều trong số các tội phạm này được thực hiện với hình thức phạm tội có tổ chức, mang tính chất tuyến đường dây qua biên giới Trung quốc và các tỉnh bạn ở khu vực đông bắc và tây bắc lân cận.

Tuy nhiên, số liệu về tình hình tội phạm liên quan đến đồng phạm, những vấn đề vướng mắc bất cập trong công tác xét xử các vụ án có đồng phạm chưa được Tòa án và các cơ quan tư pháp tỉnh Hà Giang tổng kết và có số liệu chính thức, điều này xuất phát từ việc không đặt ra chỉ tiêu thống kê cũng như những hạn chế khác của công tác tổng kết, thống kê báo cáo trong thực tiễn.

Theo báo cáo của Công an tỉnh Hà Giang, trong 5 năm gần đây (2010

- 2015) tình hình tội phạm, tệ nạn xã hội trên địa bàn tỉnh Hà Giang vẫn có những diễn biến phức tạp, song từng bước giảm về số vụ, số đối tượng vi phạm. Theo số liệu của Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang, số vụ án và số bị cáo được Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Hà Giang thụ lý, xét xử cơ bản ổn định, cụ thể:

Bảng 2.1: Bảng tổng hợp số vụ án hình sự được thụ lý, giải quyết tại Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang từ 2010 -1014


Năm


Cấp

Thụ lý

Giải quyết

Còn

Vụ án

Bị cáo

Vụ án

Bị cáo

Vụ án

Bị cáo


2010

Sơ thẩm

258

459

284

457

1

2

Phúc thẩm

24

33

24

33

0

0

Tổng

309

492

308

490

1

2


2011

Sơ thẩm

250

441

246

437

4

4

Phúc thẩm

16

17

14

14

2

3

Tổng

266

458

260

451

6

7


2012

Sơ thẩm

305

710

303

708

2

2

Phúc thẩm

20

38

19

37

1

1

Tổng

325

748

322

745

3

3


2013

Sơ thẩm

333

738

331

729

2

9

Phúc thẩm

24

50

24

50

0

0

Tổng

357

788

355

779

2

9


2014

Sơ thẩm

353

742

350

733

3

9

Phúc thẩm

36

57

36

57

0

0

Tổng

389

779

386

790

3

9


2015

Sơ thẩm

316

721

314

719

2

2

Phúc thẩm

22

39

22

39

0

0

Tổng

338

760

336

758

2

2

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.

Các hình thức đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang - 8

(Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang)


Theo báo cáo của Công an tỉnh Hà Giang, trong khoảng thời gian nêu trên, toàn tỉnh xảy ra 1.526 vụ, phát hiện 3.090 đối tượng phạm pháp hình sự. Cơ quan điều tra đã tiến hành xử lý 1.525 vụ/3.087 đối tượng. Về tai nạn, tệ nạn xã hội xảy ra 303 vụ trên tổng số 226 người chết. Tai nạn giao thông xảy ra 89 vụ, làm chết 74 người, bị thương 85 người, so với thời gian trước giảm 31 vụ, giảm 27 người chết, giảm 28 người bị thương.

Từ năm 2010 đến 2015 có 152 vụ/ 195 bị cáo được đưa ra xét xử phúc thẩm và đều được tòa án phúc thẩm tỉnh thụ lý và giải quyết.

Số vụ án tồn đọng vẫn còn, tuy nhiên từ năm 2013 trở về đây số vụ tồn đọng chưa được giải quyết có chiều hướng giảm (Năm 2014 còn tồn 3 vụ/9 bị cáo).

Nhìn chung, việc xét xử đảm bảo đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, trong thời hạn luật định, không xảy ra oan sai. Mức hình phạt được áp dụng đều tương xứng với tính chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội mà các bị cáo đã gây ra, có tác dụng giáo dục và phòng ngừa chung.

Bảng 2.2: Tương quan về một số tội của đồng phạm



Tội

Năm 2011

Năm 2012

Năm 2013

Năm 2014

Năm 2015

Vụ án đồng

phạm

Bị cáo

Vụ án đồng phạm

Bị cáo

Vụ án đồng phạm

Bị cáo

Vụ án đồng phạm

Bị cáo

Vụ án đồng phạm

Bị cáo

Ma túy

118

204

181

395

187

362

184

414

190

402

Cố ý gây

thương tích

28

109

32

117

39

145

35

123

25

122

Cướp tài sản



79

216

75

237

64

145

39

102

Tham nhũng

7

17



7

20

8

19

8

23

Giết người

9

23

9

38

23

51

25

57

13

22

Tội khác

193

257

188

332

222

484

331

521

243

328

(Nguồn: Tòa án nhân dân tỉnh Hà Giang)


Nhìn từ bảng số liệu trên chúng ta thấy rằng loại tội phạm có đồng phạm tham gia nhiều nhất trên địa bàn tỉnh Hà Giang từ năm 2011 đến 2015 là tội phạm về ma túy, kể cả số vụ án và bị cáo đều có chiều hướng tăng lên theo từng năm.

Qua nghiên cứu các vụ án hình sự - trong 50 vụ án hình sự được phân loại có đồng phạm được tác giả nghiên cứu theo phương pháp ngẫu nhiên trong 5 năm, cho thấy:

Xem tất cả 105 trang.

Ngày đăng: 05/05/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí