Các hình thức đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang - 11

Do đó, cần sửa đổi, đưa nội dung xác định dấu hiệu của người thực hiện, những người tham gia thực hiện tội phạm và mức độ trách nhiệm của người tham gia thực hiện tội phạm trong mối quan hệ với người thực hành lên thành (điều) khoản đầu tiên. Tiếp đó là quy định hình thức phạm tội đồng phạm và trường hợp đặc biệt của hình thức phạm tội này là phạm tội có tổ chức.

(ii), Khoản 1 Điều 20 Bộ luật hình sự quy định: “Đồng phạm là trường hợp có hai người trở lên cố ý cùng thực hiện một tội phạm”. Trong quy định này, thuật ngữ “trường hợp” được sử dụng có ngoại diên quá rộng, rất khó thống nhất áp dụng theo logic hình thức, thì việc đưa ra khái niệm là một thao tác logic nhằm vạch ra nội hàm của khái niệm đó và phương pháp phổ biến là phương pháp định nghĩa theo quan hệ giống - loài, tức là quy khái niệm đồng phạm vào khái niệm khác có ngoại diện rộng hơn bao hàm cả ngoại diện đồng phạm. khái niệm có ngoại diện rộng hơn chính là hình thức phạm tội, bởi lẽ hình thức phạm tội có thể do một người thực hiện, có thể do nhiều người thực hiện nhưng không có đồng phạm hoặc có thể do hai người trở lên cố ý cùng tham gia vào việc thực hiện tội phạm (đồng phạm).

Thứ hai, về nội dung điều luật: Định nghĩa đồng phạm tại Điều 20 BLHS không những không chính xác về mặt khoa học, mà còn không phù hợp với thực tiễn. Định nghĩa này mới chỉ đề cập được một trường hợp đồng phạm giản đơn, chỉ có người thực hành bởi vì sử dụng thuật ngữ “cùng thực hiện tội phạm” mà không đề cập đến trường hợp đồng phạm phức tạp còn có những loại người tổ chức, xúi giục, giúp sức - vì thực chất ba loại người đồng phạm này không trực tiếp thực hiện tội phạm mà chỉ “cùng tham gia” vào việc thực hiện tội phạm.

Vì vậy, nên sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 2 Bộ luật hình sự theo hướng: “Đồng phạm là hình thức phạm tội do hai người trở lên cố ý cùng tham gia vào việc thực hiện tội phạm...”.

(iii), Khoản 3 Điều 20 Bộ luật hình sự quy định: “Phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm có sự câu kết chặt chẽ giữa những người cùng thực hiện tội phạm”. Quy định trên chưa tuân thủ đầy đủ quy tắc của logic hình thức. Khoản 3 Điều 17 Bộ luật hình sự năm 1985 cũng như khoản 3 Điều 20 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định phạm tội có tổ chức là hình thức đồng phạm..., trong khi đó khoa học luật hình sự nước ta thừa nhận đồng phạm là một hình thức phạm tội đặc biệt [42]. Mâu thuẫn logic dễ dàng nhận thấy: đồng phạm là hình thức phạm tội; phạm tội có tổ chức... là hình thức đồng phạm.

Thuật ngữ “câu kết” không chính xác bằng “cấu kết” là thuật ngữ mà các văn bản pháp luật hình sự của ta đã sử dụng nhất là trong các Sắc lệnh do Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sau năm 1945. Mặt khác, thuật ngữ cấu kết trong Hán Việt Từ Điển của Đào Duy Anh được giải thích là kết lại, xây dựng [1], cho nên dùng thuật ngữ cấu kết chính xác hơn. Cụm từ câu kết chặt chẽ mang tính chất định tính, có thể dẫn đến các cách hiểu khác nhau. Do đó, trong văn bản hướng dẫn, giải thích Bộ luật hình sự cần phải lượng hóa đặc điểm này để bảo đảm áp dụng thống nhất. Từ sự phân tích ở trên cũng như qua nghiên cứu thực tiễn xét xử, có thể sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 20 theo hướng diễn đạt rõ là “đồng phạm có tổ chức” thay vì “phạm tội có tổ chức”, coi đây là một trường hợp đặc biệt của hình thức phạm tội là đồng phạm và nội hàm của khái niệm “đồng phạm có tổ chức” được hiểu như sau: “Đồng phạm có tổ chức là hình thức phạm tội có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người cùng tham gia vào việc thực hiện tội phạm...”.

(iv), Về thuật ngữ luật hình sự trong chế định TNHS trong đồng phạm:

- Thuật ngữ “người thực hành” cần được sửa đổi thành “người thực hiện”. Bởi vì, thực hành có thể được hiểu theo hai nghĩa: Áp dụng lý thuyết vào thực tế và nghĩa vụ thực hiện. Thuật ngữ “người thực hành” theo BLHS được hiểu theo nghĩa “người thực hiện”. Do đó, việc sửa đổi thuật ngữ “người thực hành” thành “người thực hiện” làm cho thuật ngữ rõ ràng hơn.

(v), Về nội dung điều luật quy định định nghĩa người đồng phạm: Còn quá đơn giản và chưa đầy đủ, cần bổ sung thêm, cụ thể như sau:

- Dạng người thực hiện tội phạm thông qua người khác mà người này không phải chịu TNHS đã có trong lý luận khoa học và thực tiễn, trong pháp luật hình sự một số nước trên thế giới, nhưng chưa chính thức được ghi nhận trong định nghĩa về người thực hành. Trong BLHS cũng chưa ghi nhận thuật ngữ “người đồng thực hiện” trong khi đó đây là loại người đồng phạm xảy ra tương đối phổ biến trong thực tiễn.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 105 trang tài liệu này.

- Định nghĩa người tổ chức (Điều 20) liệt kê các dạng người tổ chức, nhưng tên gọi trừu tượng và cũng không được định nghĩa chính thức trong BLHS - chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy. Nhà làm luật đã sử dụng những thuật ngữ không rõ để định nghĩa cho thuật ngữ chưa biết.

- Định nghĩa người xúi giục (Điều 20) liệt kê một số thủ đoạn của người xúi giục có thể thực hiện: Kích động, dụ dỗ, thúc đẩy. Việc liệt kê như vậy chưa khái quát được các dấu hiệu cơ bản của người xúi giục mà chỉ phản ánh được một số biểu hiện cụ thể.

Các hình thức đồng phạm trong luật hình sự Việt Nam trên cơ sở thực tiễn địa bàn tỉnh Hà Giang - 11

Về TNHS của các loại người tham gia thực hiện tội phạm thì hiện chưa có quy định về mức độ TNHS của từng loại người đồng phạm. Theo chúng tôi, cần khẳng định người xúi giục phải chịu TNHS như người thực hiện tội phạm; người giúp sức được giảm nhẹ TNHS hơn người thực hiện tội phạm; người tổ chức chịu trách nhiệm cao hơn người thực hiện tội phạm.

(vi), Về việc quy định về tổ chức tội phạm cũng như trách nhiệm của người thành lập và tham gia tổ chức tội phạm, hiện nay mới chỉ có quy định tại Điều 3. Nguyên tắc xử lý BLHS năm 2015 về nguyên tắc xử lý, theo đó “Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội” và “Nghiêm trị người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên

nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng”. Trong khi đó, ở Việt Nam, thực tiễn đấu tranh chống tội phạm nói chung và đặc biệt tội phạm do các băng, nhóm tội phạm gây ra ngày càng tăng. Bên cạnh đó, với trách nhiệm của quốc gia thành viên Công ước của Liên hợp quốc về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, Việt Nam không thể đi ngược với xu hướng chung của thế giới là tăng cường đấu tranh chống tội phạm có tổ chức bằng việc đưa vào BLHS quy định tổ chức tội phạm trong Phần chung, bổ sung tội danh thành lập và tham gia tổ chức tội phạm trong Phần các tội phạm. Theo đó, người thành lập, người tham gia tổ chức tội phạm phải chịu TNHS về hành vi thành lập hoặc tham gia tổ chức tội phạm được quy định trong Phần các tội phạm của BLHS. Ngoài ra, người thành lập, tham gia tổ chức tội phạm còn phải chịu TNHS về tội phạm cụ thể do tổ chức tội phạm thực hiện. Theo chúng tôi, cần đưa vào Bộ luật hình sự vấn đề tổ chức tội phạm, đó là “nhóm gồm từ ba người trở lên có sự liên kết, phân cấp tương đối chặt chẽ, ổn định, lâu dài giữa các thành viên nhằm mục đích thực hiện các tội phạm”. Luật cũng nên quy định người thành lập, người tham gia tổ chức tội phạm phải chịu trách nhiệm về hành vi thành lập hoặc tham gia tổ chức tội phạm theo quy định tại Phần các tội phạm của Bộ luật này. Ngoài ra, người thành lập còn phải chịu trách nhiệm hình sự là người tổ chức về các tội phạm cụ thể mà tổ chức tội phạm thực hiện. Người tham gia còn phải chịu trách nhiệm hình sự về các tội phạm cụ thể mà tổ chức tội phạm đã thực hiện và họ cũng là người thực hiện hoặc tham gia thực hiện.

Ngoài ra cần có điều luật quy định về tự ý nửa chứng chấm dứt việc phạm tội của người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức trong đồng phạm. Nếu những người đồng phạm không thực hiện tội phạm được đến cùng do những nguyên nhân khách quan thì người thực hiện tội phạm thực hiện đến giai đoạn nào, những người đồng phạm phải chịu trách nhiệm hình sự ở giai đoạn đó

(vii), Cần có quy định về chủ thể đặc biệt trong đồng phạm. Đối với các

tội phạm đòi hỏi chủ thể đặc biệt thì chỉ riêng đối với người thực hiện phải có những đặc điểm của chủ thể đó còn những người đồng phạm khác không cần phải có đặc điểm của chủ thể đặc biệt.

2.3.2. Các giải pháp khác nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của Bộ luật hình sự Việt Nam năm về các hình thức đồng phạm

* Về áp dụng pháp luật

Việc hoàn thiện các quy định của pháp luật về đồng phạm tạo cơ sở pháp lý và là căn cứ để các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng xác định chính xác vai trò trách nhiệm hình sự của các bị cáo trong vụ án hình sự. Tuy nhiên xác định có chính xác hay không còn phụ thuộc vào quá trình vận dụng các quy định pháp luật để giải quyết từng vụ án cụ thể. Như đã trình bày ở trên, thực tế, hoạt động áp dụng pháp luật không phải lúc nào cũng luôn đúng đắn. Để góp phần nâng cao hiệu quả của hoạt động này, chúng ta cần thực hiện một số giải pháp khắc phục như:

- Khi áp dụng pháp luật phải hiểu một cách đầy đủ, chính xác các khái niệm và nội dung quy định của pháp luật về đồng phạm. Nhìn nhận quy định về hình thức đồng phạm trong mối quan hệ tổng thể với những quy định về đồng phạm. Có sự so sánh đối chiếu giữa các trường hợp, lật đi lật lại một vấn đề để hiểu được bản chất của từng loại người và xác định được dấu hiệu quan trọng cho việc phân biệt người thực hành liên quan với những người đồng phạm khác.

- Khi áp dụng pháp luật để giải quyết vụ án hình sự không chỉ áp dụng hai ngành luật là hình sự và tố tụng hình sự, mà cần có sự bao quát và áp dụng cả các quy định của những ngành luật khác có liên quan.

- Trong từng vụ án cụ thể cần xác định những hành vi, hậu quả cụ thể của mỗi tội phạm, mỗi bị cáo của vụ án hình sự để đưa ra giải quyết. Tránh tình trạng

xác định nhầm, giải quyết không hết hoặc giải quyết vượt quá hành vi, hậu quả phạm tội của mỗi bị cáo.

- Trong quá trình giải quyết vụ án hình sự, bên cạnh việc xác định có hành vi phạm tội hay không, vấn đề trách nhiệm hình sự là trọng tâm, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cần coi trọng cả việc xác định rõ vai trò, mức hình phạt của bị cáo trong vụ án vụ án hình sự. Trên thực tế có vụ án hình sự bị hủy do việc đánh giá vai trò, quyết định hình phạt không phù hợp.

- Vụ án nào có khó khăn hoặc bất đồng quan điểm về tội danh, vai trò, trách nhiệm của người thực hành nên nghiên cứu kỹ hồ sơ; tìm hiểu tài liệu và các quy định của pháp luật về những vấn đề chưa rõ. Nếu không chắc chắn hay khó xác định có thể đưa ra trao đổi với đồng nghiệp để cùng bàn bạc thảo luận xem ý kiến nào là hợp lý nhất, từ đó rút ra được cách giải quyết đúng đắn.

- Đẩy mạnh công tác xây dựng án lệ để có đánh giá đúng, thống nhất về các vụ án hình sự nói chung và các vấn đề liên quan đến đồng phạm nói riêng.

- Làm tốt hơn nữa công tác tổng kết thực tiễn giải quyết các vụ án và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật, kịp thời tháo gỡ những vướng mắc trong việc giải quyết các vụ án có người thực hành trong đồng phạm. Đặc biệt là đối với ngành Tòa án, việc đúc rút những vướng mắc, kinh nghiệm từ công tác xét xử là rất cần thiết.

* Về công tác cán bộ

Để áp dụng đúng các quy định của pháp luật; giải quyết vụ án hình sự một cách nhanh chóng, chính xác, khách quan, toàn diện, ngoài việc phải hoàn thiện pháp luật, chúng ta cần quan tâm đến công tác cán bộ với những nội dung sau:

- Làm tốt công tác tổ chức cán bộ, đảm bảo đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ phù hợp với trình độ chuyên môn, năng lực sở trường. Từng bước tuyển dụng đủ cán bộ và làm tốt khâu tuyển chọn theo hướng lựa chọn những

người có đủ tiêu chuẩn theo quy định và có năng lực. Đặc biệt là trong ngành Tòa án, cần tiếp tục đổi mới cơ chế tuyển chọn, đổi mới quy trình bổ nhiệm, tái nhiệm Thẩm phán theo hướng nhanh gọn, hiệu quả để ngành Toà án luôn được đáp ứng đủ số lượng Thẩm phán phục vụ công tác chuyên môn. Thực hiện tốt công tác luân chuyển, điều động, biệt phái cán bộ trong cả ba ngành Điều tra, Kiểm sát và Tòa án để tăng cường cho các đơn vị có nhiều án nhưng chưa đủ cán bộ theo yêu cầu của công việc.

- Tăng cường việc đào tạo, đào tạo lại hoặc bồi dưỡng về chuyên môn, nghiệp vụ cho Thẩm phán, cán bộ. Tổ chức thực hiện tốt việc tập huấn chuyên môn nghiệp vụ theo hướng có chất lượng, hiệu quả. Tạo điều kiện thuận lợi và động viên, khuyến khích cán bộ, công chức tự học tập nâng cao năng lực trình độ; mở rộng quan hệ quốc tế để cử người đi học tập, nâng cao kiến thức nhằm đáp ứng yêu cầu giải quyết các vụ án hình sự đang ngày càng phức tạp trong tình hình hội nhập quốc tế hiện nay. Đồng thời quan tâm đến việc giáo dục, bồi dưỡng phẩm chất đạo đức của người cán bộ đảm bảo mọi cán bộ đều có tinh thần trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp.

- Tăng cường công tác quản lý cán bộ, thanh tra, kiểm tra để phát hiện, xử lý kịp thời đối với các tập thể và cá nhân cán bộ, công chức có vi phạm, đặc biệt là xử lý nghiêm minh các hành vi lợi dụng nghề nghiệp, chức vụ, quyền hạn làm trái với các quy định của pháp luật, gây ảnh hưởng và thiệt hại đến quyền lợi của những người tham gia tố tụng.

Tóm lại, việc hoàn thiện pháp luật hình sự nói chung và pháp luật hình sự quy định về đồng phạm nói riêng là vấn đề hết sức cần thiết và cấp bách hiện nay. Đây là một trong những cơ sở pháp lý quan trọng cho việc thực thi pháp luật hình sự ngày càng hoàn thiện, thống nhất. Có như vậy, hiệu quả hoạt động của các cơ quan hành pháp nói chung và các cơ quan xét xử nói riêng mới ngày càng được củng cố, đảm bảo cao nhất pháp chế và đảm bảo tính giáo dục và phòng ngừa trong việc duy trì, bảo vệ trật tự an ninh xã hội của đất nước.

Kết luận Chương 2

Vấn đề nổi cộm khi nghiên cứu việc áp dụng các quy định của BLHS về đồng phạm trong thực tiễn xét xử chính là chưa có nhận thức thống nhất về những dấu hiệu khách quan và chủ quan của đồng phạm, dẫn tới xác định lẫn lộn giữa có hay không có đồng phạm; tuyệt đối hóa tính nguy hiểm của phạm tội dưới hình thức đồng phạm so với phạm tội đơn lẻ; nhầm lẫn giữa thuật ngữ đồng phạm với tòng phạm và tùng phạm trước đây, coi người đồng phạm chỉ là kẻ a dua, a tòng, giữ vai trò phụ trong vụ án; việc áp dụng tình tiết "câu kết chặt chẽ" trong phạm tội có tổ chức chưa thống nhất dẫn tới xét xử không công bằng... Có rất nhiều nguyên nhân dẫn tới tình trạng trên, trong đó nguyên nhân thiếu các quy định về đồng phạm, các văn bản hướng dẫn, giải thích pháp luật không kịp thời là những nguyên nhân cơ bản cần tập trung khắc phục.

Đồng phạm là chế định lớn, cơ bản trong Luật hình sự Việt Nam. Để hoàn thiện và nâng cao hiệu quả áp dụng các quy định của BLHS 1999 về đồng phạm trước tiên phải phấn đấu xây dựng được một hệ thống các quy phạm pháp luật hình sự về đồng phạm hoàn chỉnh, đáp ứng được yêu cầu của khoa học pháp lý và thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm. Cần kịp thời có văn bản hướng dẫn, giải thích pháp luật của cơ quan có thẩm quyền để đáp ứng nhu cầu thực tiễn đặt ra.

Xem tất cả 105 trang.

Ngày đăng: 05/05/2024
Trang chủ Tài liệu miễn phí