Phân Tích Hoạt Động Nhận Dạng Rủi Ro Tín Dụng Tại Các Nhtm


2.3.1. Phân tích hoạt động nhận dạng rủi ro tín dụng tại các NHTM

NHTM qua nắm bắt, phân tích tình hình, diễn biến hoạt động của các lĩnh vực, ngành kinh tế, đối tượng cụ thể (khách hàng, đối tác liên quan người vay…) nhận thấy các dấu hiệu bất thường, có nguy cơ dẫn đến RRTD (khách hàng sử dụng vốn sai mục đích, hàng hóa tiêu thụ chậm, hàng tồn kho tăng cao, xuất hiện nợ phải thu khó đòi, thường xuyên gia hạn điều chỉnh kỳ hạn nợ, thay đổi cơ cấu tổ chức… hoặc lĩnh vực, ngành nghề hoạt động gặp điều kiện không thuận lợi do xu hướng, cơ chế chính sách…) để đưa ra giải pháp xử lý kịp thời, hạn chế mức thấp nhất tổn thất của RRTD như thu hồi nợ trước hạn (đôn đốc thu hồi hoặc nắm bắt thời điểm khách hàng có nguồn thu để thu hồi…), có lộ trình giảm dần hạn mức cho vay, bổ sung thêm TSBĐ…

Các chi nhánh NHTM nắm bắt, nhận dạng RRTD trong phòng ngừa rủi ro, trong việc đưa ra quyết định cấp cho vay hay không cho vay. Thực tế trên địa bàn cho thấy một số chi nhánh NHTM nắm bắt, nhận dạng RRTD từ hoạt động kinh tế, xã hội trên địa bàn khá thường xuyên, liên tục, đầy đủ góp phần giảm thiểu RRTD.

Điển hình như BIDV trong cho vay doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đã nắm bắt được đặc điểm, rủi ro về tín dụng đối với loại hình doanh nghiệp này, chủ yếu chỉ cho vay ngắn hạn nhu cầu vốn lưu động với hạn mức phù hợp với quy mô, vốn đầu tư của doanh nghiệp FDI, tăng cường nhận TSBĐ là nhà xưởng, quyền sử dụng đất thuê, hạn chế nhận bảo đảm máy móc thiết bị nhập khẩu; do vậy đến nay không có nợ xấu tại lĩnh vực này.

Trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, một số NHTM đã rất thận trọng, phòng ngừa rủi ro (lĩnh vực dễ bị rủi ro do đọng vốn, khó thu hồi vốn đầu tư do công trình chậm quyết toán, thanh toán vốn chậm, bị ảnh hưởng nhiều bởi thời tiết, vị trí thi công...) do vậy nợ xấu cho vay lĩnh vực này thấp mặc dù dư nợ cho vay lớn (BIDV 0%, NHCT tỉnh 0%, NHCT Đền Hùng 0,12%) trong khi một số NHTM tỷ lệ rất cao (MB 11,93%; NHCT TX Phú Thọ 20,25%).

Một số NHTM không nắm bắt, nhận dạng RRTD kịp thời từ cho vay lĩnh vực tàu thuyền trong khi các NHTM khác rất hạn chế hoặc không xét duyệt cho vay dẫn


đến nợ xấu cao như NHCT TX Phú Thọ, NHCT Hùng Vương, NHNo Gia Cẩm, MHB…

Một số chi nhánh NHTM đã rất coi trọng nắm bắt, thu thập thông tin, nhận dạng RRTD kịp thời, từ đó nâng cao chất lượng quản trị RRTD, biểu hiện ở tỷ lệ nợ xấu ở mức thấp so với mức bình quân chung của ngành trên địa bàn mặc dù hoạt động tín dụng ở quy mô lớn và danh mục cho vay đa dạng, phức tạp so với các NHTM khác trên địa bàn như BIDV (tỷ lệ nợ xấu 1,46%), NHCT Đền Hùng (tỷ lệ nợ xấu 0,09%).

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 138 trang tài liệu này.

2.3.2. Phân tích hoạt động đo lường rủi ro tín dụng tại các NHTM

Để đo lường RRTD tổng thể, các chi nhánh NHTM thường sử dụng các chỉ tiêu chủ yếu: tốc độ tăng trưởng tín dụng, tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ, tỷ lệ nợ quá hạn/ tổng dư nợ, cơ cấu danh mục cho vay, tỷ trọng dư nợ cho vay theo từng lĩnh vực; trong đó một số chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá chất lượng tín dụng và mức độ hoàn thành kế hoạch được giao (tốc độ tăng trưởng tín dụng, tỷ lệ nợ xấu/ tổng dư nợ). Các chỉ tiêu liên quan nợ xấu, nợ quá hạn nhằm đánh giá kết quả quản lý, hoạt động và thực hiện báo cáo của chi nhánh; chưa phản ánh và đo lường được thực tế chất lượng và mức độ RRTD; đồng thời cần bổ sung chỉ tiêu đánh giá về nợ đã xử lý rủi ro để đánh giá đầy đủ chất lượng tín dụng.

Các giải pháp nâng cao hiệu quả quản trị rủi ro tín dụng của các chi nhánh Ngân hàng thương mại trên địa bàn tỉnh Phú Thọ - 12

Nhưng thực tế việc phản ảnh đo lường RRTD (nợ xấu) qua các báo cáo của các NHTM không chính xác, nợ xấu thấp hơn thực tế, do không hạch toán chuyển nhóm nợ kịp thời, đảo nợ thông qua phương thức cho vay hạn mức tín dụng…; điển hình: Cty CP Đầu tư và Xây dựng Đức Phương - NHCT TX Phú Thọ, cho vay đảo nợ, giải ngân chuyển khoản thẳng vào tài khoản của khách hàng để thu nợ cũ đã quá hạn, tỷ lệ nợ xấu trước thanh tra 0,24% (năm 2010) và sau thanh tra 7,43% (tháng 9/2011); Cty CP Đầu tư và Phát triển Hùng Vương không trả gốc, lãi quá hạn trên 1 năm nhưng vẫn để nợ nhóm 2 trong thời gian dài; không phân loại nhóm nợ xấu tương ứng mức độ rủi ro, suy giảm khả năng trả nợ của khách hàng như Cty CP Nam Tiến, Cty CP Cường Thịnh (NHNo Hạ Hòa)...


Ta thấy rằng tổng dư nợ luôn chiếm một khoản lớn trong tổng tài sản có của ngân hàng. Điều này là do các NHTM đã liên tục đẩy mạnh việc cho vay, do vậy phải đồng thời tăng cường chú ý đến khả năng thu hồi của các khoản vay này.

2.3.3. Phân tích việc áp dụng các biện pháp quản lý rủi ro tín dụng

- Phân tích chính sách quản lý rủi ro tín dụng tại các chi nhánh NHTM

Một số hệ thống NHTM đã có những định hướng, chỉ đạo chặt chẽ, kịp thời (phân tích những xu hướng, ngành nghề lĩnh vực đầu tư từng thời điểm...); đồng thời với hệ thống văn bản quy định cơ chế, chính sách hoạt động tín dụng khá chặt chẽ đã giúp cho chi nhánh NHTM quản trị RRTD hiệu quả (hệ thống NHCT, BIDV) như các quy định quy chế cho vay (đưa ra các điều kiện cụ thể về điều kiện vay vốn trong từng trường hợp, quy định giải ngân; đưa ra quy chế cho vay từng đối tượng, lĩnh vực cụ thể…), quy định bảo đảm tiền vay với những điều kiện ràng buộc, khắt khe đã hạn chế RRTD tại các chi nhánh.

Đồng thời dựa trên quy định, định hướng của NHNN và NHTM cấp trên trong hoạt động tín dụng, một số chi nhánh NHTM đã cụ thể hóa trong thực tiễn nhằm quản lý RRTD hiệu quả (thể hiện qua những phương pháp, cách làm cụ thể tại từng chi nhánh…); ví dụ: yêu cầu khách hàng ký kết thỏa thuận NHTM được toàn quyền xử lý TSBĐ, chuyển quyền sở hữu tài sản khi không trả nợ đúng cam kết; nâng cao mức vốn tự có khách hàng phải tham gia so với mức quy định trong hệ thống; chủ động đánh giá giá trị TSBĐ thấp hơn so với giá trị thị trường…

- Phân tích chính sách phân bổ tín dụng

Phân bổ tín dụng theo khu vực địa lý, ưu tiên mở rộng hoạt động tín dụng tại những nơi có điều kiện mở rộng tín dụng và chất lượng tín dụng bảo đảm; phân bổ tín dụng theo lĩnh vực, ngành nghề trong đó ưu tiên những ngành, lĩnh vực đang có tiềm năng phát triển, hoạt động an toàn hiệu quả; kiểm soát và khống chế dư nợ tín dụng đối với những khu vực, lĩnh vực có chất lượng tín dụng thấp. Thực tế chỉ một số ít NHTM trên địa bàn chú trọng và thực hiện phân bổ tín dụng nhằm quản lý RRTD. Việc lựa chọn địa điểm đặt phòng giao dịch còn chủ yếu nhằm huy động vốn, chưa hướng đến nhiều huyện có nhiều tiềm năng, nhu cầu để mở rộng tín


dụng; còn tập trung cho vay nhiều tại những khu vực đã có dư nợ tín dụng cao (dễ dẫn đến RRTD từ cạnh tranh cho vay...; ví dụ như huyện Thanh Sơn, huyện Phù Ninh…).

- Phân tích mức phán quyết tín dụng

Thẩm quyền phán quyết được giao từ NHTM cấp trên (gồm thẩm quyền phê duyệt giới hạn tín dụng, ra quyết định cấp tín dụng, ký kết hợp đồng tín dụng) được phân theo từng cấp quản lý; căn cứ thẩm quyền được giao một số NHTM giao mức phán quyết cho các phòng giao dịch, chi nhánh cấp 3 (hệ thống NHNo); việc giao mức phán quyết phù hợp năng lực, trình độ quản lý là một biện pháp quan trọng để quản lý RRTD. Thực tế cho thấy việc giao mức phán quyết vượt năng lực cấp dưới có thể dẫn đến RRTD (mặc dù mức phán quyết quá thấp có thể ảnh hưởng đến hoạt động của chi nhánh, phòng giao dịch cấp dưới). Trên địa bàn, có chi nhánh NHTMCP chỉ thực hiện nhiệm vụ bán hàng không được giao quyền phán quyết tín dụng từ Hội sở (Maritimebank).

- Phân tích việc xếp hạng, chấm điểm tín dụng

NHTM theo định kỳ thực hiện xếp hạng, chấm điểm tín dụng đối với khách hàng dựa trên những chỉ tiêu, chỉ số do hệ thống NHTM xây dựng, từ đó định hướng trong quan hệ tín dụng với khách hàng (hệ thống BIDV còn sử dụng kết quả xếp hạng để phân loại nợ theo quy định). Kết quả xếp hạng, chấm điểm tín dụng còn chưa phù hợp với mức độ RRTD, chất lượng thực tế do nguyên nhân như số liệu báo cáo tài chính của khách hàng không trung thực, chính xác; những thông tin phi tài chính liên quan khách hàng có ảnh hưởng đến RRTD khoản vay nhưng không được tính đến đồng thời do cán bộ tín dụng điều chỉnh nhằm mục đích nhất định (tiếp tục cho vay, hạ thấp điều kiện vay vốn, điều chỉnh lãi suất cho vay...).

- Phân tích việc tuân thủ chính sách, quy trình tín dụng

Qua thanh tra, kiểm tra các NHTM cho thấy mức độ tuân thủ chính sách, quy trình tín dụng tại các chi nhánh NHTM mặc dù không loại bỏ được RRTD nhưng sẽ hạn chế, giảm thiểu mức độ RRTD, nâng cao chất lượng tín dụng tại chi nhánh. Việc tuân thủ chính sách, quy trình tín dụng phụ thuộc năng lực, trình độ và đạo đức của


lãnh đạo, cán bộ tại chi nhánh. Thực tế các chi nhánh NHTM có tỷ lệ nợ xấu cao đều có liên quan đến những sai phạm trong thực hiện chính sách, quy trình tín dụng do thanh tra, kiểm tra phát hiện (NHCT TX Phú Thọ, NHNo Gia Cẩm...).

- Phân tích chất lượng thẩm định tín dụng

Chất lượng phân tích, thẩm định tín dụng tại các NHTM ở mức khác nhau, phụ thuộc trình độ, kinh nghiệm cán bộ thực hiện có tác động đến RRTD. Nhiều NHTM phân tích, thẩm định tín dụng chủ yếu dựa trên TSBĐ, chưa chú trọng đến hiệu quả, khả thi của phương án vay vốn, phân tích dòng tiền của đối tượng đầu tư; RRTD phát sinh khi phương án không hiệu quả, không có nguồn tiền trả nợ và dẫn đến rủi ro đọng vốn, mất vốn khi TSBĐ suy giảm giá trị, khó khăn, phức tạp trong xử lý tài sản... Đối với các khoản vay lớn, thực tế chất lượng phân tích, thẩm định tín dụng phụ thuộc vào cách nhìn nhận của người phê duyệt cho vay. Bên cạnh những NHTM có đội ngũ cán bộ tín dụng có trình độ, kinh nghiệm còn những trường hợp phân tích, thẩm định tín dụng dựa trên số liệu người vay cung cấp không trung thực nhưng không phát hiện, dựa trên nhận định chủ quan, định tính. Thực hiện tốt việc thu thập thông tin liên quan khoản vay góp phần nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng.

2.3.4. Phân tích hoạt động kiểm soát và giảm thiểu rủi ro tín dụng

- Phân tích mô hình kiểm soát rủi ro tín dụng

Mô hình quản lý rủi ro tín dụng: Các NHTM thực hiện theo mô hình hoạt động trong hệ thống từ NHTM cấp trên đã có sự tách biệt, độc lập giữa các chức năng kinh doanh (tiếp xúc khách hàng, đàm phán, tiếp thị...), chức năng tác nghiệp (xử lý hồ sơ, theo dõi, giám sát khoản vay, thu nợ, thu lãi...) và chức năng quản trị rủi ro (phân tích, thẩm định, dự báo, đo lường, đánh giá lại theo định kỳ...) trong quy trình tín dụng ở các mức độ khác nhau. Thậm chí có chi nhánh NHTM chỉ được thực hiện chức năng kinh doanh, tác nghiệp còn chức năng quản trị rủi ro được chuyển về trung tâm thuộc Hội sở chính NHTM tập trung thực hiện (phân tích, thẩm định, phê duyệt từ xa thông qua tài liệu, hồ sơ từ chi nhánh NHTM chuyển lên) làm tăng tính khách quan, độc lập trong quản trị RRTD của NHTM như Maritimebank. Một số NHTMCP đã tách biệt độc lập giữa chức năng kinh doanh và chức năng quản trị rủi ro (phân


tích tín dụng) như MB, NHCT, BIDV; một số NHTM chưa tách biệt rõ ràng chức năng kinh doanh với chức năng tác nghiệp: hệ thống NHNo, MHB. Hệ thống NHNo trước đây thực hiện cả 3 chức năng trên tại phòng kinh doanh (vận hành theo cơ chế một cửa: cán bộ tín dụng vừa tiếp xúc, đàm phán, tiếp thị khách hàng; vừa phân tích, thẩm định tín dụng; thiết lập, xử lý hồ sơ, theo dõi khoản vay và trực tiếp thu nợ).

Bộ phận thực hiện chức năng quản trị RRTD: một số NHTM chức năng, nhiệm vụ quản trị RRTD được cụ thể hóa tại bộ phận nhất định như BIDV, hệ thống NHCT, MHB, MB (thành lập bộ phận quản trị, quản lý rủi ro), trong quy trình tín dụng có sự tham gia nhất định của khâu thẩm định RRTD (quy định những trường hợp cấp tín dụng nhất định phải qua thẩm định RRTD độc lập).

Bộ phận kiểm tra, kiểm soát nội bộ: một số NHTM đặt bộ phận chuyên trách về kiểm soát nội bộ đặt tại chi nhánh như NHNo, MHB với số lượng cán bộ, trình độ ở mức độ khác nhau; một số chi nhánh NHTM chức năng kiểm tra, kiểm soát nội bộ được thực hiện từ xa (nhất là các NHTMCP) và chủ yếu thông qua cơ chế tự kiểm tra, kiểm soát (kiểm tra chéo) giữa các khâu trong quy trình nghiệp vụ (có sự tham gia của Hội sở và chi nhánh).

- Phân tích hoạt động kiểm soát, thực hiện quy trình tín dụng

Các NHTM kiểm soát chặt chẽ việc thực hiện đầy đủ quy trình tín dụng góp phần giảm thiểu RRTD, đặc biệt là khâu kiểm soát trước, trong và sau cho vay. Một số NHTM thường xuyên thực hiện không đúng quy trình tín dụng dễ dẫn đến RRTD. Cụ thể như: Trước khi cho vay, chưa yêu cầu khách hàng chứng minh đủ vốn tự có hoặc bỏ vốn theo kế hoạch; cung cấp tài liệu liên quan đầu vào, đầu ra của phương án…; Trong cho vay, giải ngân trước khi có chứng từ chứng minh sử dụng tiền vay (nợ hóa đơn, chứng từ giải ngân), giải ngân tiền mặt không đúng đối tượng được áp dụng, giải ngân trước khi hoàn thiện thủ tục bổ sung TSBĐ, giải ngân vượt hạn mức phê duyệt...; Sau khi cho vay, không kiểm tra thực tế hoặc kiểm tra sau cho vay chiếu lệ, không cân đối hàng hóa, công nợ với tiền vay, không xác định dòng vận động của tiền vay... Qua thanh tra, kiểm tra cho thấy các NHTM có tỷ lệ nợ xấu thấp hồ sơ tín dụng khá đầy đủ, chặt chẽ, lưu trữ khoa học, các biên bản thể


hiện nội dung thực hiện quy trình tín dụng nêu tỷ mỷ, cụ thể và có tài liệu dẫn chứng kèm theo… (BIDV, Maritimebank).

- Phân tích việc phân loại nợ, trích lập dự phòng và xử lý rủi ro tín dụng, thu hồi nợ xấu

Qua phân loại nợ các khoản vay, NHTM đánh giá hiệu quả quản trị RRTD căn cứ các chỉ tiêu nợ quá hạn, nợ xấu, đối chiếu với chỉ tiêu kế hoạch được giao nhằm đánh giá chất lượng tín dụng, đánh giá mức độ RRTD tại chi nhánh để quản trị phù hợp.

NHTM thực hiện trích lập dự phòng, xử lý tín dụng theo quy định có tác động đến chỉ tiêu nợ xấu của chi nhánh; thực tiễn cho thấy có chi nhánh NHTM xử lý rủi ro tín dụng trái quy định nhằm điều chỉnh tỷ lệ nợ xấu phản ánh không đúng chất lượng tín dụng (Cty CP Viglacera - NHCT tỉnh, Cty TNHH Tài Trung - NHNo Đoan Hùng); tại thời điểm kết thúc năm tài chính có chi nhánh NHTM điều chỉnh, tính toán việc phân loại nợ, trích lập và xử lý rủi ro tín dụng nhằm đạt được chỉ tiêu, kế hoạch giao. Việc phân loại nợ, trích lập và xử lý rủi ro tín dụng còn chịu tác động bởi chỉ đạo của hệ thống NHTM cấp trên nhằm cân đối kết quả kinh doanh toàn hệ thống. Qua giám sát các chi nhánh NHTMCP thực hiện quản lý tín dụng tập trung có kết quả phân loại nợ, trích lập và xử lý rủi ro tín dụng (do Hội sở thực hiện) phản ánh khách quan, chính xác chất lượng tín dụng tại chi nhánh (Maritimebank).

Công tác thu hồi nợ xấu (nội bảng) tại các NHTM do bộ phận kinh doanh thực hiện; việc thu hồi nợ đã xử lý rủi ro tùy thuộc mô hình tổ chức, hoạt động của NHTM có thể do bộ phận quản trị rủi ro (tại các chi nhánh NHTM có bộ phận quản trị rủi ro: NHĐT&PT, NHCT), quản lý tín dụng (MB) hoặc do bộ phận kinh doanh thực hiện.

2.4. PHÂN TÍCH ĐÁNH GIÁ NHỮNG HẠN CHẾ TRONG CÔNG TÁC QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG HIỆN NAY

2.4.1. Nhận biết, phòng ngừa, phát hiện và hạn chế rủi ro tín dụng

Việc phát hiện RRTD tại nhiều chi nhánh NHTM còn mang tính thụ


động, chủ yếu là xử lý khi những dấu hiệu rủi ro đã xuất hiện (không trả được nợ đúng hạn, khách hàng có liên quan đến các vụ án, kinh doanh thua lỗ…).

Bộ phận kiểm tra, kiểm soát nội bộ đặt tại các chi nhánh NHTM còn nặng về kiểm tra tuân thủ, chủ yếu thực hiện theo đề cương, kế hoạch, yêu cầu, nặng tính báo cáo lên cấp trên; chưa coi trọng cảnh báo, đưa ra dấu hiệu rủi ro từ hoạt động kiểm tra, kiểm soát tín dụng tại chi nhánh; còn thiếu tính độc lập trong hoạt động, phụ thuộc vào chỉ đạo của lãnh đạo chi nhánh.

Bộ phận quản trị rủi ro tại một số chi nhánh NHTM chưa thể hiện vai trò trong phòng ngừa, phát hiện và hạn chế RRTD. Vai trò của báo cáo thẩm định RRTD trong quy trình tín dụng còn mờ nhạt, mang tính hình thức, không tác động nhiều đến quyết định cho vay hay không cho vay; phân tích dựa trên số liệu, nội dung tờ trình, báo cáo thẩm định của bộ phận kinh doanh nên nặng về lý thuyết, thiếu thực tiễn và mang tính cảnh báo thiết thực. Trong quản trị RRTD, bộ phận này chủ yếu thực hiện các báo cáo thẩm định RRTD trong quy trình cấp tín dụng, công tác quản lý rủi ro sau khi cấp tín dụng ít được coi trọng; việc thu thập thông tin để đưa ra cảnh báo tín dụng còn hạn chế.

Vai trò của Hội đồng tín dụng cơ sở tại NHTM còn mờ nhạt; Biên bản họp Hội đồng tín dụng cơ sở để ra quyết định tín dụng hầu hết thể hiện tính thống nhất cao, chưa có những ý kiến, phân tích, phản biện tại nhiều khía cạnh trước khi ra quyết định tín dụng dẫn đến quy định, quy trình về các khoản vay vượt mức phải thông qua Hội đồng tín dụng cơ sở có hiệu lực không cao để hạn chế RRTD.

2.4.2. Thực hiện quy định về phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro, xếp hạng tín dụng

Nhiều NHTM không khách quan, minh bạch trong phân loại nợ làm căn cứ để trích lập DPRR tín dụng theo đúng quy định để phản ánh đúng thực chất RRTD tại đơn vị. Thay vào đó, một số NHTM sử dụng nhiều biện pháp, cách thức nhằm điều chỉnh số liệu phân loại nợ, trích lập DPRR để phản ánh chất lượng tín dụng, kết quả kinh doanh, tài chính theo những mục đích nhất định. Nhất là hiện nay, nhiều chi nhánh NHTM đánh giá kết quả hoạt động trong năm dựa trên nhiều

Xem tất cả 138 trang.

Ngày đăng: 04/05/2023
Trang chủ Tài liệu miễn phí