Sự Thể Hiện Ý Chí Của Người Nhận Nuôi Con Nuôi

trẻ em được sống trong môi trường gia đình tốt nhất, được phát triển toàn diện về sức khỏe, trí tuệ, nhân cách.

Người nước ngoài nhận nuôi con nuôi là trẻ em Việt Nam trong hai trường hợp:

* Xin con nuôi thông thường: là những trường hợp quy định tại khoản 1, khoản 3 và khoản 4 Điều 28 Luật Nuôi con nuôi bao gồm:

- Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước cùng là thành viên của điều ước quốc tế về nuôi con nuôi với Việt Nam nhận trẻ em Việt Nam làm con nuôi;

- Công dân Việt Nam thường trú ở trong nước nhận trẻ em nước ngoài làm con nuôi.

- Người nước ngoài thường trú ở Việt Nam nhận con nuôi ở Việt Nam.

Về nguyên tắc, người xin nhận con nuôi phải thường trú ở những nước là thành viên của điều ước quốc tế hợp tác về nuôi con nuôi với Việt Nam và đáp ứng đủ các điều kiện của người nhận nuôi con nuôi theo Luật Nuôi con nuôi, cũng như pháp luật của nước nơi người nhận nuôi thường trú [30.

* Xin con nuôi đích danh: người nhận nuôi con nuôi ngoài việc phải thỏa mãn các điều kiện như đối với trường hợp xin con nuôi thông thường còn phải thuộc một trong các trường quy định tại khoản 2 Điều 28 Luật Nuôi con nuôi, đó là:

Người nhận nuôi là người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài nhưng là cha dượng, mẹ kế của người được nhận là con nuôi hoặc là cô, dì, cậu, chú, bác ruột của cháu được nhận nuôi con nuôi (Điểm a,b khoản 2 Điều 28 Luật Nuôi con nuôi). Quy định này đã đáp ứng được tình hình thực tế, tạo điều kiện cho người con được sống với

cha hoặc mẹ đẻ ở nước ngoài, tạo cơ hội để đứa trẻ được hưởng quyền lợi của người con trong quan hệ gia đình, trong môi trường gia đình gốc tại nước ngoài. Sự điều chỉnh này cũng phù hợp với quy định tại Điều 5 Luật Nuôi con nuôi khi lựa chọn gia đình thay thế cho trẻ sẽ ưu tiên người nhận nuôi là cha dượng, mẹ kế, cô, cậu, chú, dì, bác ruột của người nhận nuôi.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 110 trang tài liệu này.

Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài đã có con nuôi được xin đích danh trẻ là anh, chị, em ruột của con nuôi làm con nuôi (Điểm c khoản 2 Điều 28 Luật Nuôi con nuôi). Quy định này nhằm đảm bảo cho những trẻ là anh, chị, em ruột của nhau được sống gần nhau, được yêu thương, chăm sóc cùng nhau, tạo cho trẻ có một gia đình giống như gia đình ruột thịt trong nước của trẻ.

Hiện nay, nhà nước đang khuyến khích việc nhận các trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt làm con nuôi (khoản 4 Điều 8 Luật Nuôi con nuôi). Vì vậy, việc người Việt Nam định cư ở nước ngoài, người nước ngoài thường trú ở nước ngoài xin nhận đích danh trẻ em khuyết tật, nhiễm HIV/AIDS hoặc mắc các bệnh hiểm nghèo khác làm con nuôi (Điểm d khoản 2 Điều 28 Luật Nuôi con nuôi) được tạo điều kiện và khuyến khích. Quy định này tạo điều kiện cho các trẻ em được chữa bệnh, phục hồi chức năng, được hưởng nhiều ưu đãi về chính sách xã hội dành cho trẻ em của những nước phát triển mà ở Việt Nam do điều kiện phát triển kinh tế chưa thực hiện được. Ví dụ trẻ em ở Đức khi sinh ra sẽ được nhà nước nuôi đến hết 18 tuổi, được đi học và khám chữa bệnh miễn phí…

Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi năm 2010 - 6

Một trường hợp người nhận nuôi được xin nhận con nuôi đích danh quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 28 Luật Nuôi con nuôi phải “Là người nước ngoài đang làm việc, học tập ở Việt Nam trong thời gian ít nhất là 01 năm” [30. Thời gian ít nhất 1 năm được hiểu là thời gian sống và làm việc liên tục tại Việt Nam ít nhất là 1 năm. Trước kia tại mục 8 Nghị định 69/2006/NĐ-CP quy định

người nước ngoài đang làm việc, học tập tại Việt Nam trong thời gian ít nhất là 6 tháng. Việc tăng khoảng thời gian sống và làm việc liên tục của người nước ngoài lên thành 1 năm của Luật Nuôi con nuôi đã làm chặt chẽ thêm các điều kiện đối với người nước ngoài muốn nhận con nuôi đích danh tại Việt Nam. Bởi một người nước ngoài đến sống tại Việt Nam cần một khoảng thời gian nhất định mới hiểu được văn hóa, phong tục, con người Việt Nam. Khoảng thời gian ít nhất 1 năm là khoảng thời gian tối thiểu hợp lý để họ hiểu được văn hóa, con người Việt. Sau đó, khi họ nhận nuôi một trẻ em Việt Nam sẽ đảm bảo việc nuôi dưỡng, giáo dục phù hợp với trẻ, giúp trẻ dễ dàng thích nghi với môi trường văn hóa, ngôn ngữ, phong tục của người nhận nuôi.

Như vậy, trường hợp người nước ngoài muốn nhận đích danh một trẻ em làm con nuôi ngoài việc thỏa mãn các điều kiện tại Điều 29 Luật Nuôi con nuôi còn đồng thời thuộc một trong các trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 28 Luật Nuôi con nuôi.

2.3. Điều kiện về ý chí của các bên chủ thể

Sự thể hiện ý chí của các bên chủ thể có liên quan là yếu tố thiết yếu cần thiết, tạo cơ sở để giải quyết việc nuôi con nuôi. Chỉ khi việc nuôi con nuôi là sự thể hiện đúng ý chí tự nguyện của các chủ thể thì việc nuôi con nuôi mới thực sự bền vững, mới tạo cho trẻ em một mái ấm mà ở đó trẻ em được nuôi dưỡng, chăm sóc tốt nhất.

2.3.1. Sự thể hiện ý chí của người nhận nuôi con nuôi

Ý chí của người nhận nuôi con nuôi phải trên cơ sở tự nguyện, có suy nghĩ kỹ càng trước khi quyết định nhận nuôi con nuôi (khoản 3 Điều 21 Luật Nuôi con nuôi). Sự tự nguyện đó phải xuất phát từ nhu cầu tình cảm, tinh thần của người nhận nuôi con nuôi và phù hợp với lợi ích của người được nhận làm con nuôi thì mới được coi là hợp pháp. Nếu việc nhận nuôi con nuôi xuất phát từ những động cơ, mục đích trái pháp luật, trái đạo đức sẽ không được công nhận có giá trị pháp lí.

Ý chí của người nhận nuôi thể hiện qua đơn xin nhận nuôi con nuôi. Trong đơn người nhận nuôi con nuôi bày tỏ mong muốn nhận một đứa trẻ làm con nuôi với những đặc điểm cụ thể về giới tính, tuổi, tình trạng gia đình, sức khỏe… Nguyện vọng đó của người nhận nuôi về nguyên tắc được cơ quan có thẩm quyền tôn trọng và đáp ứng nếu có đối tượng trẻ em thích hợp. Người nhận nuôi con nuôi có thể trình bày nguyện vọng của mình xin đích danh một trẻ em nào đó từ cơ sở nuôi dưỡng hoặc từ gia đình. Việc xin đích danh được thực hiện trong những điều kiện nhất định được Luật Nuôi con nuôi quy định cụ thể. Ví dụ: Người nhận nuôi muốn nhận đích danh một trẻ phải là trẻ em bị bỏ rơi, mồ côi, không nơi nương tự hoặc có các hoàn cảnh đặc biệt khác làm con nuôi hoặc cha dượng, mẹ kế nhận con riêng của vợ/chồng làm con nuôi. Chỉ khi người xin nuôi con nuôi không bày tỏ ý muốn của mình về đứa trẻ cụ thể muốn nhận nuôi mà chỉ thể hiện nguyện vọng xin nuôi con nuôi thì khi đó cơ quan có thẩm quyền có thể giới thiệu bất cứ trẻ em nào cho họ.

Đối với người nhận nuôi con nuôi là người độc thân thì người nhận nuôi có quyền độc lập thể hiện ý chí tự nguyện của mình về việc nuôi con nuôi trong đơn xin nhận nuôi con nuôi. Trong trường hợp cả hai vợ chồng cùng nhận nuôi con nuôi thì sự thể hiện ý chí mong muốn nhận nuôi con nuôi phải là ý chí chung của cả hai vợ chồng. Hai vợ chồng phải thoả thuận và thống nhất được về việc nhận nuôi con nuôi. Trong đơn xin nhận nuôi con nuôi phải đứng tên cả hai vợ chồng với tư cách là cha nuôi và mẹ nuôi và con nuôi là con chung của cả hai vợ chồng.

2.3.2. Sự thể hiện ý chí của cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của người được cho làm con nuôi

Luật Nuôi con nuôi quy định:

Việc nhận nuôi con nuôi phải được sự đồng ý của cha mẹ đẻ của người được nhận làm con nuôi; nếu cha đẻ hoặc mẹ đẻ đã chết,

mất tích, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được thì phải được sự đồng ý của người còn lại; nếu cả cha mẹ đẻ đều đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được thì phải được sự đồng ý của người giám hộ; trường hợp nhận trẻ em từ đủ 09 tuổi trở lên làm con nuôi thì còn phải được sự đồng ý của trẻ em đó [30 Điều 21, Khoản 1].

Quy định này kế thừa khoản 1 Điều 71 Luật HN&GĐ năm 2000. Việc cho con mình làm con nuôi người khác thường là việc làm bất đắc dĩ trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định mà cha mẹ đẻ không đủ điều kiện để chăm sóc, giáo dục cho con. Vì vậy, khoản 3 Điều 21 Luật Nuôi con nuôi quy định việc cho con làm con nuôi phải xuất phát từ sự tự nguyện và ý chí độc lập của cha mẹ đẻ trên cơ sở lợi ích của đứa trẻ, với mong muốn đứa trẻ sẽ có môi trường sống tốt hơn. Sự tự nguyện này được hình thành trên cơ sở nhận thức được đầy đủ ý nghĩa và hậu quả pháp lí của việc cho con làm con nuôi, phù hợp với mong muốn và tình cảm của cha mẹ đẻ, phù hợp với lợi ích của người con nuôi. Mọi sự đồng ý cho con làm con nuôi vì mục đích trục lợi đều không phù hợp với bản chất của việc nuôi con nuôi và không phải tự nguyện thật sự. Ngược lại, mọi sự tác động, dụ dỗ, lừa dối, cưỡng ép… để có được sự đồng ý của cha mẹ đẻ trong việc cho con mình làm con nuôi cũng đều không hợp pháp và về nguyên tắc không có giá trị pháp lí. Sự đồng ý đó phải được thể hiện một cách khách quan bằng văn bản và phải được xác nhận của uỷ ban nhân dân cấp cơ sở nơi cư trú của cha mẹ đẻ. Sự đồng ý của cha mẹ đẻ khi cho con đi làm con nuôi thể hiện qua những trường hợp sau:

- Khi cha mẹ đẻ đều còn sống và có đủ năng lực hành vi dân sự thì phải có sự đồng ý của cả cha và mẹ đẻ của trẻ em đó trong việc cho con làm con nuôi, kể cả trong trường hợp cha mẹ đẻ đã li hôn, chỉ có một người (cha đẻ hoặc mẹ đẻ) trực tiếp chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em đó;

- Khi một người, cha đẻ hoặc mẹ đẻ đã chết hoặc bị tuyên bố là đã chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự thì chỉ cần sự đồng ý của người kia;

- Khi không xác định được cha đẻ của đứa trẻ thì chỉ cần sự đồng ý của người mẹ; khi không xác định được mẹ đẻ của đứa trẻ thì chỉ cần sự đồng ý của người cha đẻ;

Sự đồng ý của cha mẹ đẻ là điều kiện bắt buộc để việc nuôi con nuôi có giá trị pháp lý. Còn nếu cha mẹ đẻ đã chết, mất năng lực hành vi dân sự hoặc không xác định được cha mẹ thì phải được sự đồng ý của người giám hộ. Như vậy, người giám hộ chỉ có quyền thể hiện ý chí cho người mà mình giám hộ làm con nuôi khi cả cha mẹ đẻ của người đó đều không xác định được hoặc đều đã chết, bị tuyên bố chết hoặc đều mất năng lực hành vi dân sự. Người giám hộ ở đây có thể là người giám hộ đương nhiên, người giám hộ được cử hoặc người đứng đầu cơ sở nuôi dưỡng. Theo quy định của pháp luật, người đứng đầu cơ sở nuôi dưỡng chỉ có quyền đồng ý cho trẻ em đang sống ở cơ sở nuôi dưỡng làm con nuôi “trong trường hợp trẻ em có nguồn gốc bị bỏ rơi, bị bỏ lại cơ sở y tế hoặc khi trẻ em đó được đưa vào cơ sở nuôi dưỡng đã có giấy của cha mẹ đẻ đồng ý cho con làm con nuôi hoặc cha mẹ đẻ của trẻ em đó mất năng lực hành vi dân sự (…)”. Giấy thoả thuận đồng ý cho trẻ em làm con nuôi của người giám hộ phải có xác nhận của uỷ ban nhân dân cơ sở nơi cư trú của người giám hộ.

Luật Nuôi con nuôi còn quy định vai trò của cán bộ tư pháp hộ tịch ở Ủy ban nhân dân xã trong việc tư vấn đối với cha mẹ đẻ hoặc người giám hộ của trẻ, quy định tại khoản 2 Điều 21 Luật Nuôi con nuôi:

Người đồng ý cho làm con nuôi quy định tại khoản 1 Điều này phải được Ủy ban nhân dân cấp xã nơi nhận hồ sơ tư vấn đầy đủ về mục đích nuôi con nuôi; quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ nuôi và con nuôi; quyền, nghĩa vụ giữa cha mẹ đẻ và con sau khi người đó được nhận làm con nuôi [30 Điều 21].

Nghị định 19/2011/NĐ-CP cũng quy định:

Công chức tư pháp – hộ tịch phải tư vấn để trẻ em tiếp tục được chăm sóc, nuôi dưỡng giáo dục phù hợp với điều kiện và khả năng thực tế của gia đình; trường hợp cho trẻ em làm con nuôi là giải pháp cuối cùng, vì lợi ích tốt nhất của trẻ em thì công chức tư pháp – hộ tịch phải tư vấn đầy đủ cho những người có liên quan về mục đích nuôi con nuôi, quyền nghĩa vụ giữa các bên sau khi quan hệ nuôi con nuôi được xác lập [8 Điều 9].

Quy định này là cần thiết bởi sự tư vấn của các cán bộ tư pháp hộ tịch sẽ giúp cho cha mẹ đẻ, người giám hộ của trẻ hiểu rò các vấn đề về việc nuôi con nuôi, đặc biệt là hậu quả pháp lý khi xác lập việc nuôi con nuôi, từ đó cha mẹ đẻ sẽ suy nghĩ kỹ lưỡng về việc có nên cho trẻ làm con nuôi hay không. Sau khi tư vấn, cán bộ tư pháp sẽ tiến hành các thủ tục lấy ý kiến của những người trên theo quy định tại Điều 20, Điều 21 Luật Nuôi con nuôi.

Khoản 4 Điều 21 Luật Nuôi con nuôi quy định “Cha mẹ đẻ chỉ được đồng ý cho con làm con nuôi sau khi con đã sinh ra ít nhất 15 ngày” [30]. Quy định này nhằm tránh các trường hợp cha mẹ đẻ và cá nhân khác có sự thỏa thuận cho trẻ làm con nuôi trước khi sinh; hoặc cha mẹ đẻ có hoàn cảnh đặc biệt đã chấp nhận cho con vừa sinh ra làm con nuôi mà không có sự suy nghĩ kỹ lưỡng. Mặt khác đứa trẻ vừa mới sinh ra còn non yếu, sức đề kháng đang còn kém nên cần đến sự chăm sóc của người mẹ một thời gian để đứa trẻ cứng cáp hơn. Do đó, thời gian 15 ngày sau khi sinh con sẽ là thời gian để đứa trẻ ổn định về sức khỏe đồng thời cũng là thời gian để cha mẹ đẻ suy nghĩ kỹ hơn về việc có nên cho con làm con nuôi của người khác hay không. Điều đó cũng góp phần tạo cơ hội cho trẻ được sống trong gia đình cha mẹ đẻ, gia đình gốc ruột thịt của mình.

2.3.3. Sự thể hiện ý chí của người được nhận làm con nuôi

Khoản 1 Điều 21 Luật Nuôi con nuôi quy định trường hợp nhận trẻ em từ đủ 9 tuổi trở lên làm con nuôi thì phải được sự đồng ý của trẻ em đó. Quy định này kế thừa khoản 2 Điều 71 Luật HN & GĐ năm 2000, và tương đồng với quy định của nhiều nước trên thế giới và Công ước LaHay 1993 về bảo vệ trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế. Công ước LaHay 1993 quy định “Trẻ em đồng ý làm con nuôi, theo những hình thức do pháp luật đòi hỏi và sự đồng ý đó được thể hiện hoặc xác nhận bằng văn bản, nếu đòi hỏi phải có sự đồng ý này” [23, Điều 4, Điểm đ]. Như vậy, sự đồng ý của trẻ được nhận nuôi phải được thể hiện bằng những hình thức nhất định để đảm bảo sự đồng ý của trẻ là thật sự chứ không phải chỉ là sự tham khảo ý kiến của trẻ. Sự đồng ý của trẻ phải trên cơ sở hoàn toàn tự nguyện, trung thực, không bị ép buộc, không bị đe dọa hay mua chuộc, không vụ lợi, không kèm theo yêu cầu trả tiền hoặc lợi ích vật chất khác [30, Điều 21, Khoản 3]. Bằng những quy định này quyền trẻ em đã được coi trọng và đề cao. Bởi vì, trẻ em từ 9 tuổi trở lên đã có thể nhận thức được được những gì liên quan đến bản thân như nhu cầu tình cảm, tinh thần của mình, có thể cảm nhận được sự an toàn của mình hay không khi thay đổi môi trường sống. Trẻ từ 9 tuổi trở lên, trong những trường hợp này được coi là có năng lực hành vi một phần, có thể quyết định về những quan hệ liên quan trực tiếp tới cuộc sống của mình. Quy định này nhằm đảm bảo trẻ em được tự do bày tỏ ý kiến của mình và ý kiến của trẻ em phải được thu thập theo trình tự luật định, đảm bảo sự tự nguyện của trẻ khi đưa ra ý kiến đó. Vì vậy, luật quy định sự đồng ý của trẻ em từ đủ 9 tuổi trở lên đối với việc được nhận làm con nuôi là điều kiện bắt buộc để việc nuôi con nuôi có giá trị pháp lý.

2.3.4. Sự thể hiện ý chí của Nhà nước

Ý chí của Nhà nước được thể hiện qua việc công nhận hoặc không

Xem tất cả 110 trang.

Ngày đăng: 27/06/2022
Trang chủ Tài liệu miễn phí