Điều Kiện Đối Với Người Được Nhận Làm Con Nuôi

Chương 2

CÁC ĐIỀU KIỆN ĐỂ VIỆC NUÔI CON NUÔI CÓ GIÁ TRỊ PHÁP LÝ THEO LUẬT NUÔI CON NUÔI NĂM 2010


2.1. Điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi

Theo quy định tại Điều 8 Luật Nuôi con nuôi năm 2010 thì điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi được quy định như sau:

- Người được nhận làm con nuôi là “trẻ em dưới 16 tuổi” [30, Điều 8, Khoản 1]. Khoản 1 Điều 68 Luật HN & GĐ năm 2000 quy định người được nhận làm con nuôi là “người từ mười lăm tuổi trở xuống” [26]. Việc tăng tuổi của người người được nhận làm nuôi theo Luật Nuôi con nuôi là phù hợp với mục đích của việc nuôi con nuôi và phù hợp với các văn bản khác về độ tuổi của trẻ em. Điều này thể hiện ở chỗ:

Thứ nhất, trẻ em dưới 16 tuổi là người chưa có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, chưa nhận thức được đầy đủ hậu quả hành vi của mình. Việc thiết lập quan hệ nuôi con nuôi sẽ đảm bảo cho người con nuôi có được sự chăm sóc, giáo dục của cha mẹ nuôi. Việc nhận người trên 16 tuổi hoặc người đã thành niên làm con nuôi làm cho việc nuôi con nuôi không còn đúng với mục đích của việc nuôi con nuôi. Những người trên 16 tuổi đã có thể tự lập kiếm sống nuôi bản thân và thông thường người nhận con nuôi cũng mong muốn nhận nuôi những trẻ em dưới 16 tuổi, vừa tạo cho các em một mái ấm gia đình, vừa thuận lợi trong việc nuôi dưỡng, phát triển tình cảm gắn bó giữa cha mẹ nuôi và con nuôi.

Thứ hai, theo quy định của Luật bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em thì “trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi trở xuống” [30]. Trong khi độ tuổi của trẻ em được nhận làm con nuôi cần phù hợp với quy định về độ tuổi của trẻ em. Do đó, Luật nuôi con nuôi đã quy định tuổi của người được nhận

làm con nuôi thành “trẻ em dưới 16 tuổi”, cao hơn so với Luật HN & GĐ năm 2000 là cần thiết và hợp lý, tạo cơ hội cho những trẻ em từ 15 tuổi đến dưới 16 tuổi được nhận làm con nuôi.

Thứ ba, mục đích của việc nuôi con nuôi hướng tới đối tượng chủ yếu là trẻ em, tạo điều kiện cho trẻ em được chăm sóc, nuôi dưỡng và giáo dục trong môi trường gia đình. Quy định người được nhận làm con nuôi là trẻ em dưới 16 tuổi tạo điều kiện cho trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt có cơ hội được nhận làm con nuôi, được sống trong môi trường gia đình với sự bảo vệ, chăm sóc, nuôi dưỡng của cha mẹ nuôi.

Có thể bạn quan tâm!

Xem toàn bộ 110 trang tài liệu này.

So với quy định của các nước về độ tuổi của trẻ được cho làm con nuôi, quy định của Việt Nam về vấn đề này khá tương đồng. Theo pháp luật Trung Quốc trẻ em dưới 14 tuổi có thể được nhận làm con nuôi hay pháp luật Cộng hòa Pháp quy định độ tuổi của trẻ em được nhận làm con nuôi là dưới 15 tuổi.

Theo quy định tại khoản 2 Điều 8 Luật nuôi con nuôi, trong trường hợp người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể được cho làm con nuôi nếu thuộc một trong các trường hợp sau:

Các điều kiện nuôi con nuôi theo Luật nuôi con nuôi năm 2010 - 4

a) Được cha dượng, mẹ kế nhận làm con nuôi;

b) Được cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận làm con nuôi.”

Quy định này đảm bảo việc nuôi con nuôi phù hợp với nguyên tắc trẻ em được sống trong môi trường gia đình gốc của mình, tạo điều kiện cho trẻ em được sống trong gia đình có mối quan hệ huyết thống hoặc gia đình có quan hệ họ hàng với trẻ. Luật HN & GĐ năm 2000 quy định trường hợp ngoại lệ đối với người được nhận làm con nuôi đó là: “Người trên 15 tuổi có thể được nhận làm con nuôi nếu là thương binh, người tàn tật, người mất năng lực hành vi dân sự hoặc làm con nuôi của người già yếu cô đơn” [26]. Ý tưởng của quy định này là rất tốt đẹp, phù hợp với truyền thống đạo đức của dân tộc, tạo điều kiện cho những người có hoàn cảnh trên được nuôi dưỡng,

chăm sóc, có một chỗ dựa về kinh tế. Tuy nhiên, điều luật này lại không có tính khả thi cao vì trên thực tế rất ít trường hợp như trên xảy ra. Việc đưa những người này vào các trung tâm bảo trợ xã hội, các tổ chức từ thiện sẽ phù hợp hơn. Vì vậy, Luật nuôi con nuôi năm 2010 đã bỏ đi quy định này.

Như vậy, trừ trường hợp ngoại lệ được quy định tại khoản 2 Điều 8 Luật Nuôi con nuôi thì đối tượng của việc nuôi con nuôi là trẻ em. Quy định này phù hợp với mục đích nuôi con nuôi, bảo đảm tính thống nhất của hệ thống pháp luật trong nước, đồng thời vẫn bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh cam kết quốc tế khi nước ta gia nhập Công ước Lahay 1993 về bảo vệ quyền trẻ em và hợp tác trong lĩnh vực nuôi con nuôi quốc tế.

- Người được nhận làm con nuôi chỉ được cho làm con nuôi trong trường hợp: “của một người độc thân hoặc của cả hai người là vợ chồng” (khoản 3 Điều 8 Luật nuôi con nuôi). Như vậy, Luật nuôi con nuôi quy định trẻ em được cho làm con nuôi trong hai trường hợp: làm con nuôi của một người độc thân hoặc làm con nuôi của vợ chồng. Trường hợp trẻ em làm con nuôi của một người độc thân, người con nuôi sẽ trở thành con riêng của người đó. Người con nuôi sẽ được yêu thương, chăm sóc của người cha hoặc người mẹ nuôi của mình. Trường hợp thứ hai, trẻ em làm con nuôi của vợ chồng, người con nuôi đó sẽ trở thành con chung của cả hai vợ chồng. Luật không cho phép người đang có vợ hoặc có chồng nhận con nuôi riêng, vợ chồng chỉ có thể nhận nuôi con nuôi chung và việc nhận con nuôi cần có sự thống nhất của cả hai vợ chồng, do cả hai vợ chồng cùng nhận nuôi. Vợ chồng nhận nuôi con nuôi phải có hôn nhân hợp pháp, có nghĩa là hai bên nam, nữ có đầy đủ các điều kiện kết hôn theo quy định và được đăng ký kết hôn tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Do đó, trường hợp hai bên nam nữ chung sống với nhau như vợ chồng nhưng chưa đăng ký kết hôn thì không được nhận con nuôi. Việc nhận con riêng của vợ hoặc chồng làm con nuôi thì đứa con này sẽ trở

thành con chung của cả hai vợ chồng. Quy định này nhằm đảm bảo cho trẻ được cho làm con nuôi có một môi trường gia đình trọn vẹn, có sự yêu thương đầy đủ của tất cả các thành viên trong gia đình, tạo điều kiện cho trẻ em được sống trong môi trường gia đình tự nhiên như gia đình gốc của mình, đảm bảo cho người con nuôi về nơi ăn chốn ở, về sự hòa hợp và sự ổn định thống nhất trong cách sống, cách chăm sóc giáo dục con nuôi.

Quy định này cũng phù hợp với pháp luật các nước trên thế giới là không được phép làm con nuôi hai lần. Nuôi con nuôi hai lần có nghĩa là đứa trẻ làm con nuôi của người này (lần 1), sau đó người này lại cho đứa trẻ làm con nuôi của một người khác nữa (lần 2). Việc nuôi con nuôi hai lần như vậy sẽ dẫn đến tình trạng lạm dụng việc nuôi con nuôi để buôn bán trẻ em vào những mục đích xấu khác và sẽ không kiểm soát được việc nuôi con nuôi, nếu có chuyện gì xảy ra sẽ rất khó quy trách nhiệm cho bên nào. Tuy nhiên, pháp luật các nước cũng như pháp luật Việt Nam chỉ quy định tại thời điểm trẻ em đang được cho làm con nuôi thì không được phép cho làm con nuôi người khác. Nhưng nếu quan hệ nuôi con nuôi đó đã chấm dứt và đứa trẻ đó vẫn có đủ các điều kiện về độ tuổi, hoàn cảnh để được cho làm con nuôi thì vẫn có thể được nhận làm con nuôi của một người khác.

Tại Luật nuôi con nuôi quy định: “Nhà nước khuyến khích việc nhận trẻ em mồ côi, trẻ em bị bỏ rơi, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khác làm con nuôi” [30, Điều 8, Khoản 4], đã khẳng định tính nhân đạo của việc nuôi con nuôi. Bởi những trẻ em mồ côi, bị bỏ rơi hoặc có hoàn cảnh đặc biệt rất cần được sự quan tâm nuôi dưỡng của cha, mẹ của một gia đình mà bản thân những trẻ em đó đã thiếu hoặc chính sách của Nhà nước không thể đảm bảo cho các em được hưởng đầy đủ các quyền cơ bản của trẻ em.

Tuy nhiên, ngoài những điều kiện trên Luật nuôi con nuôi không có quy định nào khác về điều kiện đối với người được nhận làm con nuôi. Quy

định này sẽ dẫn đến cách hiểu là mọi trẻ em dưới 16 tuổi trở xuống đều có thể được cho làm con nuôi. Điều này không đúng với mục đích của việc cho

– nhận con nuôi là chỉ cho trẻ làm con nuôi khi trẻ không có sự chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục của gia đình do bố mẹ đã chết, bị mất tích, không xác định được hoặc đều bị mất năng lực hành vi dân sự hoặc khi cha mẹ đẻ của trẻ tuy còn sống nhưng không thể có điều kiện chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ. Khi đó việc cho trẻ làm con nuôi mới là biện pháp tốt nhất và vì lợi ích của trẻ. Mặt khác, quy định như trên còn dẫn đến hiện tượng lợi dụng việc cho – nhận con nuôi nhằm mục đích trục lợi khác mà không nhằm xác lập quan hệ cha mẹ - con giữa người nhận nuôi và người được nhận nuôi. Ví dụ như việc cho con làm con nuôi của người thương binh, bệnh binh, có công với cách mạng, người dân tộc thiểu số để được hưởng chính sách ưu đãi. Trường hợp này mặc dù việc cho con nuôi được đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền nhưng người con nuôi vẫn sống với cha mẹ đẻ, quan hệ nuôi con nuôi trên thực tế không tồn tại. Hoặc nguy hiểm hơn, trẻ em cho làm con nuôi còn bị lợi dụng vào mục đích khác như buôn bán trẻ em ra nước ngoài, để bóc lột sức lao động hay lạm dụng tình dục đối với trẻ em. Vì vậy, pháp luật nuôi con nuôi cần quy định điều kiện về hoàn cảnh của trẻ được nhận làm con nuôi, để việc nuôi con nuôi không bị biến dạng, không đúng với bản chất và mục đích nhân đạo của nó.

Trước khi luật Nuôi con nuôi có hiệu lực, Luật HN &GĐ năm 2000 cũng chỉ quy định về độ tuổi của của người được nhận làm con nuôi, tuy nhiên về điều kiện đối với trẻ em cho làm con nuôi nước ngoài lại quy định rất cụ thể trong Nghị định số 68/2002/NĐ-CP ngày 10/7/2002 và Nghị định số 69/2006/NĐ-CP ngày 21/7/2006 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 68/2002/NĐ-CP, đó là: trẻ em được nhận làm con nuôi phải là trẻ em từ mười lăm tuổi trở xuống. Trẻ em từ trên mười lăm tuổi đến dưới 16 tuổi có

thể được nhận làm con nuôi nếu là trẻ em tàn tật, trẻ em mất năng lực hành vi dân sự. Như vậy, trẻ em được nhận làm con nuôi nước ngoài phải là trẻ em đang sống tại các cơ sở nuôi dưỡng được thành lập hợp pháp hoặc trẻ em đang sống tại các gia đình nếu thuộc trường hợp trẻ em mồ côi; trẻ em khuyết tật, tàn tật; trẻ em mất năng lực hành vi dân sự; trẻ em mắc bệnh hiểm nghèo khác; trẻ em là nạn nhân của chất độc hóa học; trẻ em nhiễm HIV/AIDS hoặc những trẻ em sống tại gia đình mà có quan hệ họ hàng thân thích với người xin nhận con nuôi hoặc có anh chị em ruột đang làm con nuôi của người xin nhận con nuôi cũng thuộc trường hợp được cho làm con nuôi nước ngoài. Quy định về diện trẻ em làm con nuôi người nước ngoài hẹp và chặt chẽ hơn. Nhưng với quy định này nhiều trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn sẽ không thể có điều kiện được nhận làm con nuôi người nước ngoài nếu không được nhận vào các cơ sở nuôi dưỡng hoặc có quan hệ họ hàng thân thích với người nhận nuôi.

Theo Luật Nuôi con nuôi, người được nhận làm con nuôi ở nước ngoài đều phải đáp ứng các điều kiện tại Điều 8 Luật Nuôi con nuôi. Tuy nhiên, người được nhận nuôi chỉ được cho làm con nuôi ở nước ngoài nếu đã thực hiện tất cả các biện pháp tìm kiếm gia đình nuôi dưỡng trẻ em ở trong nước theo quy định tại Điều 15 Luật Nuôi con nuôi mà không tìm được khi hết thời hạn luật định, trừ trường hợp trẻ em được xin đích danh (theo Điều 28 Luật Nuôi con nuôi). Quy định này đảm bảo nguyên tắc tôn trọng quyền được sống trong môi trường gia đình gốc của trẻ em.

2.2. Điều kiện đối với người nhận nuôi con nuôi

Điều kiện đối với người nhận nuôi con nuôi được quy định tại khoản 1 Điều 14 Luật nuôi con nuôi năm 2010, bao gồm các điều kiện sau:

- Người nhận nuôi con nuôi phải “có năng lực hành vi dân sự đầy đủ”

[30, Điều 14, Khoản 1, Điểm 1]. Theo quy định tại Bộ luật dân sự năm 2005

thì “Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng cá nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự của mình” [28, Điều 17]. Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ là người đáp ứng đủ hai điều kiện: đủ 18 tuổi trở lên; không phải là người mất năng lực hành vi dân sự (người do bị tâm thần hoặc mắc các bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của mình và có quyết định của Tòa án tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự), và không phải là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự (người do nghiện rượu hoặc nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản của gia đình, bị Tòa án tuyên bố là người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự).

Quy định người nhận con nuôi là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ là cần thiết, đảm bảo sự thể hiện ý chí tự nguyện của người nhận nuôi, cũng như khả năng nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con nuôi của cha mẹ nuôi. Nếu người nhận con nuôi không có năng lực hành vi dân sự hoặc bị mất năng lực hành vi dân sự thì họ không nhận thức được trách nhiệm làm cha, làm mẹ của họ, họ không thể hiện ý chí của mình một cách đúng đắn trong quyết định nhận con nuôi, và trong quá trình nuôi dưỡng sẽ không thể đảm bảo cho người con nuôi có được cuộc sống bình thường, mục đích của việc nuôi con nuôi không đạt được. Người nhận nuôi con nuôi bị coi là không đủ điều kiện khi họ là người đang bị hạn chế một số quyền của cha, mẹ đối với con chưa thành niên hoặc đang chấp hành quyết định xử lý hành chính tại cơ sở giáo dục, cơ sở chữa bệnh; Người đang chấp hành hình phạt tù; Người chưa được xóa án tích về một trong các tội cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của người khác; ngược đãi hoặc hành hạ ông bà, cha mẹ, vợ chồng, con, cháu, người có công nuôi dưỡng mình; dụ dỗ, ép buộc hoặc chứa chấp người chưa thanh niên vi phạm pháp luật; mua bán, đánh tráo, chiếm đoạt trẻ em. Những người trong trường hợp này đang bị hạn chế năng lực dân sự một phần, họ không có quyền quyết định những vấn đề quan trọng liên

quan đến quyền tài sản, quyền nhân thân. Nên theo quy định những người này không được nhận nuôi con nuôi.

- Về độ tuổi người nhận nuôi con nuôi phải “hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên” [30, Điều 14, khoản 1, điểm b].

Luật Nuôi con nuôi đã kế thừa quy định này từ Luật HN & GĐ năm 2000. Đây là điều kiện cần thiết để cha mẹ nuôi có thể đảm đương các nghĩa vụ đối với con nuôi. Giữa người nhận nuôi và con nuôi phải tuân theo những điều kiện nhất định về độ tuổi để đảm bảo có sự chênh lệch và khoảng cách cần thiết giữa hai thế hệ. Có như vậy việc nuôi con nuôi mới đảm bảo được mục đích là: xác lập quan hệ cha mẹ và con, đảm bảo cho người được nhận làm con nuôi được trông nom, nuôi dưỡng, giáo dục phù hợp với đạo đức xã hội. Hơn nữa, về mặt sinh học, giữa hai thế hệ kế cận luôn có một khoảng cách tuổi tác mới đảm bảo được sự tôn trọng và khả năng nuôi dưỡng giáo dục con cái. Đồng thời, quy định này cũng nhằm tránh trường hợp người nhận nuôi con nuôi có mục đích khác như lạm dụng tình dục với người con nuôi. Nếu một người là con nuôi của cả hai vợ chồng thì cả cha nuôi, mẹ nuôi đều phải hơn con nuôi từ 20 tuổi trở lên. Tuy nhiên, theo khoản 3 Điều 14 Luật Nuôi con nuôi, trường hợp cha dượng nhận con riêng của vợ, mẹ kế nhận con riêng của chồng làm con nuôi hoặc cô, cậu, dì, chú, bác ruột nhận cháu làm con nuôi thì không áp dụng quy định khoảng cách về độ tuổi. Quy định này đã đảm bảo trẻ em được sống trong môi trường gia đình họ hàng thân thích với cha hoặc mẹ đẻ hoặc cô, dì, chú, bác ruột thịt của mình.

Tuy nhiên, Luật Nuôi con nuôi chỉ quy định khoảng cách về độ tuổi giữa con nuôi và cha mẹ nuôi mà không quy định độ tuổi tối thiểu của người nhận nuôi con nuôi. Việc quy định độ tuổi tối thiểu đối với người nhận nuôi con nuôi là cần thiết bởi bản chất của việc nuôi con nuôi là hình thành quan hệ cha mẹ và con hợp pháp giữa hai bên, do đó tuổi của người nuôi phải

..... Xem trang tiếp theo?
⇦ Trang trước - Trang tiếp theo ⇨

Ngày đăng: 27/06/2022